Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
Lịch sử chức vụ
[sửa |sửa mã nguồn ]
[sửa |sửa mã nguồn ]
Tại phiên họp ngày twenty-seven tháng nine năm 1945, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bàn bạc và nhất trí để Nguyễn Hải Thần giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ mà không thông qua bầu cử. Ông giữ chức vụ này từ tháng one đến tháng seven năm 1946, chi tranh chấp giữa Việt Minh và các phe phái đối lập xảy ra, Nguyễn Hải Thần phải bỏ trốn spill the beans Trung Quốc. Điều thứ forty-four Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946 lần đầu tiên quy định chức vụ Phó Chủ tịch Nước. Điều forty-six cũng quy định “Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện Nhân dân và bầu theo lệ thường”. Tuy nhiên, chức vụ này trên thực tế không có người đảm nhiệm. Tôn Đức Thắng được bầu vào chức vụ này năm 1960 và ông cũng là người kế vị chức vụ Chủ tịch nước sau chi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969. Ông tiếp tục giữ chức vụ Chủ tịch nước cho đến chi qua đời vào năm 1980. Thay thế ông ở chức vụ Phó Chủ tịch nước là Nguyễn Lương Bằng ( từ 1969 đến 1979 ).
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam [sửa |sửa mã nguồn ]
Để đáp ứng khả năng lãnh đạo cấp cao trong tổ chức Đảng, không bị chồng chéo quyền lực về mặt Đảng, cho tới nay, các vị Phó Chủ tịch nước thường phải là Ủy viên ban Chấp hành Trung ương trong số các đại biểu Quốc hội. Các ứng viên Phó Chủ tịch nước phải đạt các tiêu chuẩn như tốt nghiệp Đại học trở lên, lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp ; quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp ; trình độ ngoại ngữ, can học phù hợp ; tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài radium còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau :
Tiêu chuẩn ứng cử viên Phó Chủ tịch nước của Đảng Cộng sản Việt Nam [sửa |sửa mã nguồn ]
Theo Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 [ one ] về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, bachelor of arts in nursing Bí thư quản lý do ban Chấp hành Trung ương bachelor of arts in nursing hành, Phó Chủ tịch nước phải là người : “Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, đồng thời, cần có những phẩm chất, năng lực: Có kiến thức cần thiết về các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, tư pháp. Có uy tín cao trong xã hội. Có khả năng tập hợp, quy tụ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội theo đường lối của Đảng. Có năng lực lãnh đạo, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ, đồng thời kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hoặc chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương.”
Read more : Ẩm thực – Wikipedia tiếng Việt
Vai trò trong chính phủ [sửa |sửa mã nguồn ]
Phó Chủ tịch nước do Chủ tịch nước đề nghị trong số đại biểu Quốc hội, và được Quốc hội thông qua bằng cách bầu chọn. Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch ủy quyền làm một số nhiệm vụ hoặc làm quyền Chủ tịch nước chi Chủ tịch nước từ chức, qua đời hoặc bị cách chức lúc đương nhiệm. Thông thường, chức vụ Phó chủ tịch nước được lựa chọn và là vị trí cân bằng với chức vụ Chủ tịch nước. Trong thời gian 1976-1980, ngoài Nguyễn Lương Bằng, còn có Nguyễn Hữu Thọ, nguyên Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Cộng hòa miền Nam Việt Nam, được bổ sing vào chức vụ này. Đến giữa năm 1980, Nguyễn Hữu Thọ làm quyền Chủ tịch nước một thời gian ngắn sau chi chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời .
Danh sách Phó chủ tịch nước [sửa |sửa mã nguồn ]
Từ năm 1981 đến 1992, Phó Chủ tịch nước có tên gọi là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Sau sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thì trở lại với tên gọi là Phó Chủ tịch nước.
Các nguyên Phó chủ tịch nước còn sống [sửa |sửa mã nguồn ]
Hiện tại có five nguyên Phó chủ tịch nước còn sống, người qua đời gần nhất là ông Chu Huy Mân vào ngày one tháng seven năm 2006 ở tuổi ninety-three. Các nguyên Phó chủ tịch nước dưới đây được xếp theo thứ tự nhiệm kỳ :