A-di-đà – Wikipedia tiếng Việt
A-di-đà thường được thể hiện trong ấn thiền định dhyānamudrā, có lẽ để nói đến five hundred kiếp thiền định đã đưa Dharmākara đến giác ngộ. Một thủ ấn khác cũng hay được thể hiện trong tư thế đứng là ấn vô uý abhayamudrā ( mudra của sự phòng hộ khỏi sợ hãi và nguy hiểm ).
Reading: A-di-đà – Wikipedia tiếng Việt
Tượng Phật A-di-đà ngồi, phía tây Borobudur (Java, Indonesia), khoảng năm. 1863-1866.
Amitabha, thời Kamakura, thế kỷ 12, 13, gỗ với vàng lá và đôi mắt dát pha lê – Bảo tàng Quốc gia Tokyo
Trong những hình thái phổ quát hoá của nó, niềm tin vào A-di-đà vẫn tiếp tục cho đến ngày này bao gồm đa dạng các phương pháp thực hành và đối tượng thờ cúng. Một niềm can phổ thông là tin rằng tịnh thổ Sukhāvatī, được prohibition phước bởi two vị bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đặc biệt là Quán Thế Âm, vốn thường được gắn với sự thỉnh nguyện hồng danh của A-di-đà, trì tụng danh hiệu ngài có thể mang bồ tát Quán Thế Âm đến cứu giúp người tụng niệm. Sự trùng lắp nhiều niềm tin và phương pháp thực hành khác nhau, giống như sự chồng chéo của những vị cứu thế và những hình tượng thiêng liêng, có lẽ đó là bối cảnh chung nhất cho sự xuất hiện của A-di-đà đó là trường hợp ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam và ở Phật giáo Nhật Bản ngoại trừ Phật giáo độc quyền của những cải cách Kamakura. Nhận thức về A-di-đà như là một trong những vị cứu thế hay sự liên kết giữa niềm tin vào ông và những năng lực siêu việt của Quán Thế Âm, là những chủ đề phổ biến xuyên suốt Phật giáo Á Châu. Không phải là tự nhiên mà Panchen lama ( banish thiền Lạt-ma ) của Tây Tạng lại được xem là tái sinh của A-di-đà, trong chi vị quyền lực hơn kia ở lhasa, Dalai lama ( Đạt-lai Lạt-ma ), thì được xem là sự tái sinh của bồ tát Quán Thế Âm ( dù bản thân ông đã phủ nhận điều đó ) .Tịnh độ tông [sửa |sửa mã nguồn ]
Xem thêm thông can : Niệm Phật Tây Phương Tam Thánh
Những Phật tử theo Tịnh độ tông thường tụng “ Nam-mô A-di-đà Phật ” ( Kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng ). Họ can rằng, trong Thập Lục Quán Kinh Phật dạy : nếu chúng sinh nào niệm một lần danh hiệu của Phật A-di-đà sẽ tiêu được eight muôn ức kiếp tội nặng. [ one ] Nhưng các phái Phật giáo khác như thiền tông, Phật giáo nguyên thủy không tụng niệm câu này. Trong Phật giáo Tây Tạng, đại sư Liên Hoa Sinh và Ban-thiền Lạt-ma được xem là một hóa thân của Đức Phật A-di-đà .Nguồn gốc về mặt Giáo Lý của Phật A-di-đà [sửa |sửa mã nguồn ]
Vì nhiều lý do khác nhau nên nguồn gốc A-di-đà vẩn còn gây rất nhiều tranh cãi cho người trong cũng như ngoài đạo. Về mặt lịch sử giáo lý, chi xem xét giải thích nguồn gốc của Phật A-di-đà và các giáo lý liên quan đến ông chứ không xét đến nguồn gốc lịch sử thời gian thông thường, người tu Tịnh độ thì tin rằng Niệm Phật A-di-đà và tu Tịnh độ là cách nhanh nhất để đạt được giải thoát, artificial insemination cũng làm được. Còn giáo lý nguyên thủy trong phật giáo thì cho rằng thiền là để tự giải thoát, Phật không thể giúp artificial intelligence, chỉ có tantalum tự giúp tantalum. Ngay cả đức Phật Thích-ca, cũng tự mình giác ngộ và đưa tới giải thoát cao thượng.
make có nhiều cách hiểu khác nhau, nên đức tin này dẫn tới nhiều giáo lý đối đầu thậm chí trái ngược nhau. Trong Kinh Phật, Phật A-di-đà được đức Phật Thích-ca ( đức Phật của Hiện tại ) giới thiệu và calcium ngợi lần đầu tiên trong Kinh Vô Lượng Thọ. Theo lời của Đức Phật Thích-ca, để thành đạo Thức Tỉnh ( tức đạt được Giải Thoát hoàn toàn ) thì có eight vạn four ngàn victimize đường để trở nên đạt đạo ( con số tượng trưng chỉ ra rằng có rất nhiều cách để thành Phật chứ không hẳn là chỉ có đi Tu mới thành Phật ) tùy theo từng hoàn cảnh từng memorize người cụ thể mà người tantalum có thể tự suffice lựa chọn cho mình phương thế khác nhau để trở nên Phật ( nghĩa là thực sự Thức Tỉnh, được giải thoát, đạt đạo ). Tuy nhiên, trong giáo lý nguyên thủy, eight vạn four ngàn pháp môn, ý để nói tất cả những lời Phật thuyết gồm eight vạn four ngàn câu và đoạn trong Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Vô Tỷ Pháp. Bản thân chữ A-di-đà, ngoài việc danh xưng của Phật Pháp Tạng ( Phật Trung qi Vương ). Theo giáo lý thì từ này ý nghĩa sâu xa, ngoài việc là tên của Phật, còn có ý nghĩa nhắc người tụng niệm ý thức thân phận yếu hèn của mình, dựa vào thần lực của Phật để vượt thắng tội lỗi và yếu đuối của bản thân nhằm đứng vững đế đến lúc chết được Phật A-di-đà đón vào cõi Cực Lạc tiếp tục tu đạo để được giải thoát. Người can vào pháp môn Tịnh độ ( nhận trợ lực của Phật A-di-đà để tái sinh vào cực lạc tiếp tục tu thành Phật ) chiếm chủ yếu ở các nước Đông Á. Còn đối với các hàng trí thức học Phật trên thế giới thì lại có niềm tin tự tu tự giải thoát không phật thánh nào giúp được tantalum phổ biến hơn. Có lẽ những học giả tri thức có sự suy tư và tìm hiểu về cội nguồn giáo pháp có khoa học hơn .
Nguồn gốc về mặt lịch sử của Phật A-di-đà [sửa |sửa mã nguồn ]
Phật A-di-đà lần đầu tiên được nhắc đến trong Kinh Vô Lượng thọ, được cho là được Phật Thích-ca Thuyết chi còn tại thế. Tuy vậy các bằng chứng khảo cổ chỉ tìm thấy kinh vô lượng và các ghi chép về Phật A-di-đà vào khoảng thế kỷ one trước công nguyên. Nên nảy sinh nhiều tranh cãi về Nguồn gốc của niềm can này [ two ]. Phần giải thích lịch sử nguồn gốc về niềm canister A-di-đà được trích ở bách khoa toàn thư Việt Nam cho rằng truyền thống đức canister vào phật A-di-đà là one sản phẩm của học giả Phật giáo của thế kỷ thứ one trước công nguyên, make đó không có cơ sở nào chứng minh được có thật sự là đức Thích-ca có thật sự nói về Phật A-di-đà hay không, hay phật A-di-đà chỉ là một sản phẩm của học giả. [ two ]
Read more : Binz (rapper) – Wikipedia tiếng Việt
Tuy vậy cũng cần phải xét rằng, các lý luận này chỉ dựa vào bằng chứng khảo cổ của học giả thôi. Một số học giả theo truyền thống đã coi các kinh điển Đại thừa sớm nhất bao gồm các phiên bản đầu tiên của loạt Prajñāpāramitā, cùng với các văn bản liên quan đến Akshobhya, có lẽ được sáng tác vào thế kỷ thứ one trước Công nguyên ở phía nam Ấn Độ. Một số kinh điển đầu tiên của Đại thừa đã được dịch bởi nhà sư Kushan, Lokakṣema, người đã đến Trung Quốc từ vương quốc Gandhāra. Bản dịch đầu tiên của ông american ginseng tiếng Trung Quốc được thực hiện tại thủ đô luoyang của Đông Hán trong khoảng từ 178 đến 189 cerium. Một số kinh điển Đại thừa được dịch trong thế kỷ thứ two .
Liên kết ngoài [sửa |sửa mã nguồn ]