Chiến dịch Xuân – Hè 1972 – Wikipedia tiếng Việt

Chiến dịch Xuân – Hè 1972, còn được biết đến với tên gọi Mùa hè đỏ lửa (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc Easter Offensive (“Chiến dịch Lễ Phục Sinh”; theo cách gọi của Hoa Kỳ), là một phần trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam, diễn ra từ ngày 30 tháng 3 năm 1972 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 trong Chiến tranh Việt Nam, là một nhóm các chiến dịch do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), chống lại quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Đây là cuộc tổng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống phòng ngự tại những hướng chiến lược quan trọng: Quảng Trị – Thừa Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V và Khu VIII (Nam Bộ). Cuộc tiến công bắt đầu ngày 30 tháng 3 năm 1972[8] và kéo dài tới 31 tháng 1 năm 1973.

Kế hoạch của Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta

Nhận thấy tình hình chuyển biến ngày càng có lợi về so sánh lực lượng và về thế chiến lược, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta quyết định hành động triển khai việc sẵn sàng chuẩn bị để mở cuộc tiến công kế hoạch năm 1972 trên toàn miền Nam, trong đó mặt trận Trị – Thiên được chọn là hướng tiến công hầu hết. Khu 5, trong đó có Thành Phố Đà Nẵng là mặt trận phối hợp quan trọng. [ 9 ]

Tháng 10 năm 1971, Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị lần thứ 9, xác định quyết tâm kiên quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trung ương Cục nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của chiến trường B2 là: “Tranh thủ thời gian, phấn đấu hoàn thành công tác chuẩn bị, xây dựng thế tiến công chiến lược mới bằng ba quả đấm mạnh trên cả ba vùng chiến lược; tiếp đó, mở cuộc tiến công và nổi dậy rộng lớn nhằm đánh suy sụp nặng ngụy quân, ngụy quyền, đánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch”. Để đạt được yêu cầu trên, Thường vụ Trung ương Cục chỉ rõ yêu cầu, nhiệm vụ trên từng vùng chiến lược:[cần dẫn nguồn]

  • Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của Mỹ ở nông thôn.
  • Đẩy mạnh đòn đánh tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực, phát triển thế tiến công liên tục khắp các chiến trường, làm cho quân địch suy sụp và tan rã nặng.
  • Đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị lên một bước mới, nhất là Sài Gòn – Gia Định; khoét sâu mâu thuẫn Mỹ – Thiệu, đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, tiến tới cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực ở hướng chính, buộc Mỹ phải lập một chính phủ mới vãn hồi hòa bình.

Chiến dịch này được định thời hạn cho trùng với quy trình tiến độ đầu của chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, với kỳ vọng rằng chiến sự leo thang sẽ gây ra áp lực đè nén can đảm và mạnh mẽ tại Mỹ đòi tự do và chấm hết cuộc chiến tranh. Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta tiến công thẳng vào những mạng lưới hệ thống phòng thủ kế hoạch của Nước Ta Cộng hòa, nhằm mục đích làm mất uy tín chủ trương Việt Nam hóa cuộc chiến tranh và cầm chân tối đa những lực lượng nòng cốt của đối phương, phá vỡ chương trình bình định nông thôn của chính phủ nước nhà Nước Ta Cộng hòa, và nâng cao vị thế trước khi diễn ra Hội nghị Paris chấm hết .Để giành thắng lợi, Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta đã kêu gọi rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này. Nhiều người lính lên đường mùa hè 1972 là những người trẻ tuổi từ 30 trường ĐH, cao đẳng của TP. Hà Nội : gần 10.000 bộ đội gồm sinh viên và cả giảng viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ Quảng Trị có nhiều bia mộ của những người lính Quân Giải phóng miền Nam Nước Ta ghi năm sinh là 1953 hay 1954. Cũng trong chiến dịch này, lần tiên phong quân Giải phóng sử dụng 2 loại vũ khí mới, đó là tên lửa phòng không vác vai Strela 2 và tên lửa chống tăng AT-3 Sagger, đây là những loại vũ khí gọn nhẹ nhưng uy lực cao, rất tương thích với giải pháp tập kích đánh nhanh – rút gọn của quân Giải phóng .Theo ước tính của Spencer C.Tucker, tổng lực lượng Quân Giải phóng miền Nam kêu gọi trong chiến dịch này lúc đầu là 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập, gồm có khoảng chừng 200.000 quân. Về trang bị, có 322 xe tăng và xe thiết giáp ( 136 xe tăng T-54, 54 xe tăng lội nước PT-76, 24 pháo cao xạ tự hành ZSU-57-2, 108 xe tăng T-34 và xe thiết giáp BTR-50 ). Lực lượng không quân Quân đội Nhân Dân Nước Ta có khoảng chừng 100 máy bay chiến đấu nhưng không tham gia yểm trợ tiến công mà được giữ lại phòng thủ miền Bắc chống lại những cuộc không kích của Không quân Mỹ .Về phía Hoa Kỳ, lực lượng tham chiến hầu hết là Không quân Hoa Kỳ ( gồm 1.270 máy bay ) và Hạm đội 7 Thái Bình Dương ( có 6 tàu trường bay, 5 tuần dương hạm và hàng chục khu trục hạm ). Quân đội VNCH có trong tay khoảng chừng 742.000 quân ( trong đó có khoảng chừng 350.000 quân nòng cốt, còn lại là quân địa phương ), trang bị khoảng chừng 2.090 xe tăng, xe thiết giáp và hàng trăm pháo tự hành những loại, gần 1.700 máy bay và trực thăng những loại, 1.611 tàu chiến và ca-nô [ 10 ]. Như vậy, tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ và VNCH, cả về quân số lẫn trang bị .Về sau chiến sự lê dài nên hai bên kêu gọi lực lượng tham chiến càng lúc càng nhiều, cho tới khi ngưng bắn vào tháng 1/1973 .

Trong lúc Quân Giải phóng miền Nam đang dồn sức chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, tình báo Hoa Kỳ và VNCH vẫn không phát hiện ra. Họ vẫn chủ quan cho rằng: “Cộng sản còn ở thế bị động về chiến lược chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ chỉ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá bình định được tăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972”[11]

Diễn biến

Chiến dịch Xuân hè 1972 xảy ra trên 3 mặt trận chính :
Lúc chiến dịch diễn ra, Hoa Kỳ chỉ còn 65.000 quân nhân đóng tại Nước Ta [ 13 ], trong đó số quân chiến đấu trên bộ chỉ còn rất ít và ít tham chiến. Tuy nhiên, lực lượng không quân và Hải quân Hoa Kỳ đóng ở Khu vực Đông Nam Á thì vẫn rất hùng hậu, sẵn sàng chuẩn bị yểm trợ hỏa lực cho lực lượng trên bộ của Mỹ – VNCH .Tại Vùng I giải pháp, Quân Giải phóng miền Nam tiến công bằng 3 Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt trận B5 ( 4 trung đoàn ), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn khác biệt địa phương. Trong tháng 4 và 5/72, hai Sư đoàn 320 và 325 từ phía Bắc của Nam Trung Bộ tiến xuống và Sư đoàn 312 từ Lào về tăng cường tiến công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị. Quân lực VNCH có ở đây 2 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, 1 lữ đoàn thiết giáp, 17 tiểu đoàn pháo binh, với hơn 50 ngàn quân chính quy, cộng với hơn 100.000 quân địa phương. Tuy nhiên lợi thế quân số này bị vô hiệu bởi Quân Giải phóng nắm thế dữ thế chủ động, buộc Quân lực VNCH phải dàn mỏng lực lượng để đối phó .
Trưa ngày 30 tháng 3 năm 1972, hai Sư đoàn 304 và 308 QGP với sự tương hỗ của những trung đoàn xe tăng và pháo binh [ 14 ], vượt qua khu phi quân sự tại giới tuyến 17 chia cắt 2 miền. Từ phía Tây, Sư đoàn 324B, với xe tăng tương hỗ, theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn. Lực lượng tương tự 3 sư đoàn này đã gây giật mình cho quân phòng thủ của Mỹ – Nước Ta Cộng hòa [ 15 ] .Quân Giải phóng miền Nam đánh vào những vị trí phòng thủ của Sư đoàn 3 QLVNCH và làm tan rã lực lượng này. QLVNCH rút lui, hai bên mở màn một cuộc chạy đua tới những cây cầu tại Đông Hà và Cam Lộ. Ngày 2 tháng 4, trung tá Phạm Văn Đính – chỉ huy Trung đoàn 56 và trung tá Vĩnh Phong – trung đoàn phó cùng với 1.500 quân ra hàng. Cuối ngày hôm đó, QLVNCH bỏ Mai Lộc, địa thế căn cứ sau cuối ở phía Tây. Từ đó, QGP hoàn toàn có thể vượt cầu Cam Lộ cách Đông Hà 11 km về phía Tây .Sau 3 tuần giảm hoạt động giải trí, ngày 27 tháng 4 Quân Giải phóng tiến công Đông Hà từ nhiều hướng ( lấy được thị xã này vào ngày hôm sau ) và tiến đến sát thị xã Quảng Trị. Ngày 29, Quân lực Nước Ta Cộng hòa được lệnh rút về sông Mỹ Chánh cách đó 13 km về phía Nam. Thị xã Quảng Trị về tay Quân Giải phóng ngày 2 tháng 5 .Chỉ vài ngày sau khi cuộc tiến công tại mặt trận Trị Thiên mở màn, ngày 5 tháng 4, lực lượng gồm Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 và 1 số ít trung đoàn độc lập của QGP vượt biên giới từ Campuchia tiến công tỉnh Bình Long ở phía bắc Hồ Chí Minh. Họ nhanh gọn cắt đường tới TP. hà Nội Hồ Chí Minh, chiếm Lộc Ninh ngày 7 tháng 4, vây hãm An Lộc từ ngày 13 tháng 4 .Ngày 12 tháng 4, mặt trận Bắc Tây Nguyên nổ súng. Sư đoàn 2 QGP cùng một phần của Trung đoàn 203 Tăng thiết giáp và 1 số ít trung đoàn độc lập của Mặt trận B-3 tiến công một loạt những cứ điểm quanh Đăk Tô và Tân Cảnh. Lực lượng gồm hơn 100 xe tăng – thiết giáp của QLVNCH từ Bến Hét vận động và di chuyển về phía Đăk Tô đã bị mai phục và hủy hoại gần hết. Đến ngày 24 tháng 4, cả Đăk Tô và Tân Cảnh đã thất thủ. Hàng ngàn binh sĩ Nước Ta Cộng hòa tháo chạy về Kon Tum gây nên một sự hỗn loạn và hoảng sợ tại thị xã này. Nếu trong vòng 1 tuần, Quân Giải phóng liên tục tiến dọc đường 14 để truy đuổi đến đây, Kon Tum sẽ nhanh gọn sụp đổ [ 16 ]. Nhưng do thiếu đạn dược bổ trợ nên quân Giải phóng đã dừng lại .Trong tiến trình đầu, cuộc tổng tấn công đã là một thành công xuất sắc tuyệt vời và hoàn hảo nhất. Tình báo Mỹ đã nhìn nhận sai về thời hạn, quy mô, và khu vực của những cuộc tiến công. QGP nhanh gọn chọc thủng những tuyến phòng thủ của QLVNCH, nhanh gọn tiến về những thị xã Quảng Trị ở phía bắc, Kon Tum ở Tây Nguyên, và An Lộc ở cách Hồ Chí Minh chỉ 60 dặm. Chỉ trong hơn 2 tháng tiến công, riêng tại Quảng Trị, QGP diệt hoặc bắt sống gần 30.000 quân, trong đó có một số ít đơn vị chức năng tinh nhuệ nhất của QLVNCH như : Lữ đoàn 147 TQLC ; tàn phá và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự chiến lược, 419 khẩu súng những loại, bắn rơi và tàn phá 340 máy bay .

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải rút quân bỏ ngỏ vùng nông thôn, huy động hầu hết lực lượng dự bị để bảo vệ các thị xã bị đe dọa, tạo cơ hội cho các lực lượng địa phương của Quân giải phóng Miền Nam mở các cuộc tấn công tại đồng bằng sông Cửu Long và các vùng tập trung dân cư quanh Sài Gòn.

Tình báo Mỹ có trụ sở tại Đà Nẵng, trong báo cáo đã viết: “Về cơ bản, các lực lượng quân đội Bắc Việt Nam đã chiến thắng nhanh như chớp. Quân lực Việt Nam cộng hòa ngạc nhiên khi quân đội Bắc Việt Nam sử dụng lực lượng mạnh như vậy trong các cuộc tiến công”. Theo ông William Colby, giám đốc cơ quan CIA tại Sài Gòn thì Quân Giải phóng chắc chắn sẽ chiếm được Huế nhưng không thể chiếm được Đà Nẵng[17] Dù vậy, thực tế tốt hơn mong đợi khi Hạm đội 7 và Không lực của Mỹ tham chiến, hỗ trợ hỏa lực đã giúp ngăn đà tiến của quân Giải phóng, giúp QLVNCH có thêm thời gian bổ sung thiệt hại và tổ chức lại.

Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch tiếp vận quy mô lớn để bổ sung cho những thiệt hại của quân VNCH thông qua 2 chiến dịch Tăng cường (Operations Enhance và Enhance Plus), được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1972. Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào ngày 17/5 đã chỉ đạo phải cung cấp tối đa trang bị và vật chất cho quân VNCH càng nhanh càng tốt. Cụ thể:

  • “Chiến dịch Tăng cường” đã cung cấp cho quân VNCH hàng nghìn vũ khí chống tăng, 69 trực thăng, 55 máy bay chiến đấu phản lực, 100 máy bay khác và 7 tàu tuần tra[18] Trang bị cho lục quân bao gồm 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 tiểu đoàn pháo tự hành 175mm, 2 tiểu đoàn xe tăng M48A3 và 141 bệ phóng tên lửa chống tăng BGM-71 TOW[19]:511
  • “Chiến dịch Tăng cường Plus” từ tháng 10 tới tháng 12/1972 cũng viện trợ rất lớn, bao gồm 234 máy bay chiến đấu phản lực F-5A và A-37 Dragonfly, 32 máy bay vận tải C-130, 277 trực thăng UH-1H, 72 xe tăng, 117 xe bọc thép chở quân, nhiều đại bác và 1.726 xe tải[19]:512 Chi phí trang bị lên tới khoảng 750 triệu đôla (~6 tỷ đôla thời giá năm 2017).
  • Ngoài ra, khi hai sư đoàn Hàn Quốc (khoảng 38.000 quân) rút khỏi Việt Nam thì phần lớn trang bị của họ cũng được trao lại cho quân VNCH. Thêm nữa, trong quá trình quân viễn chinh Mỹ rút khỏi Việt Nam, phần lớn vũ khí trong các căn cứ Mỹ đều được chuyển giao cho quân VNCH chứ không đưa về Mỹ[20] Kết quả của số viện trợ rất lớn này là quân VNCH vào cuối năm 1972 đã có lực lượng không quân lớn thứ 4 và lục quân lớn thứ 5 trên thế giới xét về số lượng trang bị.

Tổng thống Thiệu cũng cách chức một loạt tướng lĩnh, và giao quyền chỉ huy trận Quảng Trị cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Với sự yểm trợ hỏa lực tối đa của Mỹ, tướng Trưởng đã ngăn được đà của Quân Giải phóng tiến vào Huế, khiến đối phương phải lui về phòng ngự. Nhờ hỏa lực khủng khiếp từ không quân Mỹ và hạm đội 7, việc tập trung nhiều lực lượng xung quanh mục tiêu tiến công đã khiến Quân Giải phóng miền Nam chịu hỏa lực oanh tạc liên tục. Với sự hỗ trợ của Mỹ, quân VNCH sau đó phản công và tái chiếm lại thành cổ Quảng Trị sau đó 2 tháng, nhưng phải hứng chịu tổn thất nặng nề vì QGP chống trả rất quyết liệt.[21] Sau đó, 2 bên giằng co cho đến cuối tháng 1/1973 thì Hiệp định Paris được ký kết, hai bên ngừng chiến. Kết quả chiến dịch là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát được thêm một nửa tỉnh Quảng Trị (Xem chi tiết: Chiến dịch Trị Thiên)

Tại An Lộc, Quân Giải phóng miền Nam liên tiếp huy động thêm sư đoàn 9 và một số tiểu đoàn của Quân khu 8, lực lượng thiết giáp và pháo binh tác chiến. Sư đoàn 9 cùng đặc công Miền nổ súng đánh mạnh vào An Lộc, hy vọng sẽ đè bẹp đối phương rồi tiến vào bao vây Sài Gòn. Tuy nhiên họ đã để lỡ thời cơ. Mùa mưa đến, nhờ những cuộc tấn công yểm trợ dữ dội của không quân Mỹ, QLVNCH đã trụ vững.[21]. Kết quả chiến dịch: Quân Giải phóng kiểm soát được thêm thị xã Lộc Ninh và nhiều huyện ở Đông Nam Bộ cũng như vây lỏng An Lộc (Xem chi tiết: Chiến dịch Nguyễn Huệ.)

Tuy không quân Mỹ đã đánh phá kinh hoàng những khu vực tập trung chuyên sâu của Quân Giải phóng nhưng kế hoạch Việt Nam hóa cuộc chiến tranh đã nhấn mạnh vấn đề : quân Nước Ta Cộng hòa phải tự lo lấy phần việc chiến đấu trên mặt đất, còn quân đội Mỹ sẽ chỉ giúp họ về hậu cần và hỏa lực Không quân. Thực chất, Việt Nam hóa cuộc chiến tranh đã tỏ rõ tín hiệu phá sản khi Chiến dịch Lam Sơn 719 của QLVNCH thất bại [ 22 ]Trong chiến dịch, Hoa Kỳ ước tính khoảng chừng 25.000 dân thường bị thiệt mạng, gần 1 triệu phải đi tản cư. [ 23 ] Việc Hoa Kỳ sử dụng lượng hỏa lực rất lớn, pháo kích, máy bay ném bom và B-52 đánh phá hàng ngày làm cả thường dân và nhà cửa dân cư chịu tổn thất lớn .

Kết quả

Sau khi cuộc tiến công của Quân Giải phóng miền Nam diễn ra, Không quân Hoa Kỳ triển khai oanh tạc Thành Phố Hà Nội và Hải Phòng Đất Cảng cùng những hoạt động giải trí phóng ngư lôi phong tỏa những hải cảng ở miền Bắc Nước Ta. [ 24 ] Tuy nhiên, sau một thời hạn ngắn, bằng nhiều giải pháp khác nhau công binh và hải quân nhân dân Nước Ta đã phá gần hết số ngư lôi và thủy lôi, giúp hoạt động giải trí thương mại đường thủy không bị đình trệ. [ 25 ] [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ]
Binh sĩ thuộc Trung đoàn 20 Tăng Thiết giáp QLVNCH thu 1 xe tăng Type–59 của quân Giải phóng ở phía Nam Đông Hà năm 1972
Sau khi chiến dịch tạm ngưng, QLVNCH trở nên kiệt sức trong khi Quân đội Mỹ chính thức không còn năng lực tham gia đại chiến thêm nữa do phí tổn lớn, hiệu suất cao thấp và chịu nhiều sức ép của dư luận Mỹ và quốc tế. Sau chiến dịch này, mạng lưới hệ thống tình báo của Mỹ đã thể hiện nhiều điểm yếu khi họ dự báo Quân Giải phóng sẽ tiến công lên Tây Nguyên chứ không tiến công vào Quảng Trị và những khu vực nam vỹ tuyến 17. [ 31 ] Trong khi đó, báo le Figaro của Pháp nhận định và đánh giá việc Quân Giải phóng mở Chiến dịch Trị Thiên trước chuyến thăm của R.Nixon tới Trung Quốc vào tháng 2 và mở Chiến dịch Bắc Tây Nguyên trước vài ngày chuyến thăm Liên Xô của R.Nixon vào tháng 4 cho thấy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta cũng nhằm mục đích bộc lộ quyết tâm không để những nước lớn quyết định hành động vận mệnh của họ. Hoạt động của Quân Giải phóng miền Nam đã khiến chuyến thăm Liên Xô của Nixon đã trọn vẹn thất bại trong việc lôi kéo Liên Xô gây sức ép với Nước Ta do Quân Giải phóng đã đi trước một bước, khiến những cường quốc lâm vào một sự đã rồi. [ 32 ]Mặc dù, cả Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Mỹ đều công bố thắng lợi nhưng thực ra kế hoạch Việt Nam hóa cuộc chiến tranh của Mỹ đã chính thức thất bại khi ngày 15/4/1972, Tổng thống Richard Nixon công bố ngày càng tăng những cuộc oanh tạc, kể cả những vùng đông dân cư, như tướng Abrams nhu yếu. [ 33 ] Theo nhà báo Jean Lacouture thì những cuộc oanh tạc của Mỹ vô công dụng trước ý chí quyết tâm của dân tộc bản địa Nước Ta. [ 34 ]Sau chiến dịch, QLVNCH trọn vẹn kiệt sức khi ngay trong tháng tiên phong của chiến dịch, 1/3 số đơn vị chức năng nòng cốt của họ, tương tự với 5 sư đoàn, đã thương vong nặng nề. Một phần ba số đơn vị chức năng khác bị thương vong từ nhẹ đến trung bình. Đặc biệt, gần 50% trong số 40 tiểu đoàn của những đơn vị chức năng tinh nhuệ nhất như nhảy dù trên không, biệt động quân và thủy quân lục chiến đã thiệt hại nặng, mất năng lực công kích. Báo The Guardian của Anh nhận định và đánh giá, với giải pháp ” đánh điểm, diệt viện ” từng nhiều lần thành công xuất sắc trong quá khứ đã giúp cho Quân Giải phóng liên tục làm kiệt quệ QLVNCH trong quy trình tiến độ sau của chiến dịch. Cộng thêm với năng lực chiến đấu yếu kém của những tân binh, QLVNCH đã không hề phá thành công xuất sắc bất kể vòng vây nào của Quân Giải phóng miền Nam. Sau chiến dịch, Quân Giải phóng chuyển sang củng cố khu vực trấn áp và thực thi vây lỏng. [ 35 ]

Tuy rằng hiệu quả chiến đấu của QLVNCH khá thấp, thua nhiều trận và họ phải chịu thương vong rất lớn (khoảng 70.000 cho đến giai đoạn tái phối trí, trong tổng số hơn 180.000 thương vong của toàn chiến dịch), nhưng cuối cùng quân đội này đã trụ vững với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ của Mỹ, đặc biệt là từ không quân, trong đó phải kể đến các phi vụ B–52 liên tiếp rải thảm xuống đội hình đối phương. Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tin rằng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh đã chứng tỏ hiệu lực[36], bởi họ đã đẩy lui được cuộc tổng tấn công lớn nhất từ trước đến nay của Quân Giải phóng miền Nam. Song nhận định này có phần lạc quan quá mức, bởi thực tế rằng phải nhờ có hỏa lực mãnh liệt của không quân, hải quân Mỹ thì quân VNCH mới có thể trụ vững. Ngoài ra, các điểm yếu nội tại trong chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa đã lộ rõ và ngày càng trầm trọng, khi họ tỏ ra quá phụ thuộc vào yểm trợ hỏa lực của Mỹ, điều này đã bị quân Giải phóng nắm bắt và tận dụng sau đó. Những nhược điểm của Quân lực Việt Nam Cộng hòa càng chứng minh nhận xét của Nguyễn Văn Thiệu: “Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!“.[37]

Quân Giải phóng miền Nam đã sử dụng 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập ( hầu hết số quân chính quy ) cho cuộc tiến công, và đã thiệt hại lớn về quân số và trang bị. Một nguồn của Mỹ ước tính 50.000 – 75.000 chiến sỹ Quân Giải phóng đã bị thương vong, khoảng chừng 700 xe tăng – xe thiết giáp bị tàn phá [ 38 ] ( thực ra, số lượng 700 xe bị tàn phá mà Mỹ công bố chỉ là thổi phồng, vì tổng số xe tăng – xe thiết giáp mà quân Giải phóng kêu gọi cho toàn chiến dịch chỉ là 322 chiếc ). Một nguồn khác của Mỹ ước tính hài hòa và hợp lý hơn, theo đó số xe tăng – xe thiết giáp của quân Giải phóng bị tàn phá là khoảng chừng 250 xe ( gồm những loại xe tăng T-34, T-54, PT-76, xe thiết giáp BTR-50, pháo cao xạ tự hành ZSU-57-2 ) [ 39 ] Một nguồn khác nữa thì cho rằng tối thiểu 50% số khẩu súng và xe tăng của quân Giải phóng bị phá hỏng [ 40 ]. Đổi lại, quân Giải phóng đã giành được quyền trấn áp lâu dài hơn tại một nửa diện tích quy hoạnh của 4 tỉnh miền Trung Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, và Quảng Tín cũng như những vùng ven phía Tây của những Vùng II và III Chiến thuật ( khoảng chừng 10 – 20 % diện tích quy hoạnh miền Nam ). Quân Giải phóng cũng tin rằng họ đã giành được vị thế mạnh hơn tại cuộc đàm phán tự do ở Paris. [ 3 ]Về phía Quân Giải phóng miền Nam, sau chiến dịch này, mặc dầu nhiều tiềm năng quan trọng như An Lộc hay Kon Tum đã không chiếm được mà chỉ vây lỏng hay trấn áp được những vùng lân cận, nhưng thế và lực nói chung đã tốt hơn hẳn, khi đã trấn áp được nhiều vị trí kế hoạch. Ví dụ như cảng Cửa Việt, đây là một trong những cửa ngõ thuận tiện để nhận chi viện từ miền Bắc qua đường thủy. Các cuộc tiến công của quân Giải phóng chỉ thực sự giảm cường độ khi phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris đồng ý những nguyên tắc có lợi cho Cộng hòa miền Nam Nước Ta và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt quan trọng là yếu tố Mỹ phải rút quân trong khi quân Giải phóng được giữ những vùng đã trấn áp được. Việc Quân Giải phóng không hạ được thị xã An Lộc và Kon Tum khiến phái đoàn Cộng hòa miền Nam Nước Ta và phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền đến khi tổ chức triển khai Tổng tuyển cử xây dựng chính quyền sở tại liên hiệp ba thành phần ở miền Nam. [ 41 ]Theo nhìn nhận của Mỹ, thì quân Giải phóng trong chiến dịch đã gặp phải 2 thử thách lớn :

  • Khả năng chiến đấu của QLVNCH, tuy tỏ ra yếu kém về tinh thần chiến đấu và chỉ huy, nhưng vào năm 1972 vẫn là một trong những quân đội được trang bị tốt nhất thế giới nhờ vào lượng vũ khí viện trợ rất lớn của Mỹ.
  • Không tính toán được hết sự hủy diệt cực mạnh của không lực Mỹ trên chiến trường truyền thống. Các chỉ huy QGP đã không tận dụng lực lượng vũ trang địa phương, mà sử dụng quân chủ lực liên tiếp đánh trực diện vào các phòng tuyến mạnh, nên phải chịu sự oanh tạc mạnh của máy bay Mỹ.

Sau nhiều tháng chiến đấu, khi đã khá kiệt sức khó hoàn toàn có thể chiến đấu tiếp, và để củng cố và tăng cường lực lượng, Quân Giải phóng miền Nam cũng cần một khoảng chừng thời hạn ngừng chiến trong thời điểm tạm thời. Việc quân đội Mỹ vẫn còn ở Nước Ta lúc đó khiến cán cân lực lượng chưa nghiêng hẳn về phía Quân Giải phóng, họ chưa thể đánh dứt điểm đối phương trong khoảng chừng thời hạn từ cuối năm 1972 đến giữa năm 1974. Đặc biệt khi QLVNCH vẫn còn lợi thế về không quân trong khi Quân Giải phóng chưa thể tiến hành lực lượng không quân ở miền Nam. [ 42 ]

Tuy nhiên, Hà Nội và Lộc Ninh nhanh chóng tận dụng được những gì giành được. Quân Giải phóng miền Nam bắt đầu mở rộng các hành lang hậu cần từ Lào và Campuchia vào miền Nam Việt Nam. Các cơ sở tại Cửa Việt và Đông Hà được nhanh chóng mở rộng, trong vòng 1 năm, hơn 20% hàng chuyển vào cho chiến trường miền Nam được đi qua đây.[43]

Tại Paris, đàm phán tự do tiếp nối, lần này cả hai bên cùng chấp thuận đồng ý thỏa hiệp. Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đồng ý chấp thuận gật đầu ngừng bắn tại chỗ, thừa nhận nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta là một trong 2 cơ quan chính phủ sống sót song song tại miền Nam Nước Ta ( tức là ngang hàng với Nước Ta Cộng hòa ), và Mỹ rút quân trọn vẹn ra khỏi Nam Nước Ta. Tuy nhiên, do thắng lợi đã đạt được, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta được liên tục đóng giữ những vùng do họ trấn áp. Các điểm này thực tiễn đã đủ để thỏa mãn nhu cầu những tiêu chuẩn cho thắng lợi mà quân Giải phóng đã đề ra trước khi cuộc tổng tấn công khởi đầu. [ 44 ] Còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta đồng ý chấp thuận để tổng thống Nguyễn Văn Thiệu liên tục giữ quyền lực tối cao cho đến khi xây dựng được chính phủ nước nhà liên hiệp ba thành phần tại miền Nam để tổ chức triển khai Tổng tuyển cử thống nhất về nhà nước với miền Bắc ( gồm nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta, lực lượng thứ ba, sau cuối là Việt Nam Cộng hòa – trừ Thiệu và nội các ) .

Đến đây, trở ngại duy nhất đối với một cuộc dàn xếp là Nguyễn Văn Thiệu. Thất bại của Mỹ trong việc thuyết phục tổng thống Thiệu đã dẫn đến việc ngừng đàm phán vào tháng 12. Tiếp đó là chiến dịch Linebacker II đánh phá miền Bắc Việt Nam nhưng thất bại, do vậy Mỹ quay sang gây áp lực buộc Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận kết quả thương lượng hồi tháng 10, trước khi các bên quay lại đàm phán. Hiệp định hòa bình Paris được kí vào tháng 1 năm 1973 với nội dung cơ bản giống với bản đã được kí tắt hồi tháng 10, với điều khoản quan trọng nhất là cho phép Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp tục đóng ở các vùng mà họ đã kiểm soát được. Hiệp định cũng ngăn việc Mỹ tiếp tục đưa quân viễn chinh sang Việt Nam chiến đấu, trong khi không ngăn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chi viện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng như không ngăn các nước Xã hội Chủ nghĩa tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên thực tế, sau khi Hiệp định được ký kết, Mỹ rút quân viễn chinh về nước nhưng vẫn tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa, bất chấp sự phản đối của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[cần dẫn nguồn]

Chú thích

Tham khảo

Liên kết ngoài

Dịch vụ liên quan

TRÀ ĐEN LỘC PHÁT – TRÀ PHA CHẾ | 0938.664.557 – 0938.231.786 (Zalo) – TRÀ LỘC PHÁT | UY TÍN – CHẤT LƯỢNG – GIÁ TỐT

THÔNG TIN SẢN PHẨM TRÀ ĐEN LỘC PHÁTTrà Đen Lộc PhátTrọng lượng: 1kgCao - Dài -...

Minigame Bosugold ” Vòng quay may mắn – Trúng lộc đầu năm”

Năm mới hứng khởi với mưa quà Tặng Kèm từ Minigame Bosugold “ QUAY VÒNG...

Bình Chánh: Các trường THCS tại xã Vĩnh Lộc A quá tải học sinh lớp 6

( PLO ) - Trước những phản ánh của cha mẹ về việc con vào...

Tổng kết và Trao giải Cuộc thi Tìm hiểu 50 năm Chiến thắng Đồng Lộc – Đoàn thanh niên Tỉnh Hà Tĩnh

Tuổi trẻ Tỉnh TP Hà Tĩnh xung kích, năng động, phát minh sáng tạo, tình...

Giao dịch bất động sản tại Phú Yên đang đóng băng? – CafeLand.Vn

Sở Xây dựng tỉnh Phú Yên cho biết, trong quý 1/2023, trên địa phận tỉnh...

Bảo Hiểm Nhân Thọ – Gói An Gia Phát Lộc

Giải pháp kinh tế tài chính phối hợp “ bảo hiểm ” và “ tích...
Alternate Text Gọi ngay