Xe tải – Wikipedia tiếng Việt

Xe tải hãng Isuzu đang vận chuyển trái cây
Xe tải là một loại xenon có động cơ dùng để vận chuyển bất cứ loại hàng hóa nào được phép vận chuyển trên xenon Không giống như các loại xenon hơi, thường được chế tạo với một thân duy nhất, đa số xenon tải ( trừ xenon kiểu minivan ) được thiết kế xung quanh một khung cứng ( chassis ) .Các xenon tải có nhiều kích cỡ, từ kiểu nhỏ như xenon hơi gọi là xenon bán tải ( pickup truck ) cho tới những loại xenon tải dùng ở các khu vực lớn ( không chạy trên đường quy ước ) hay các loại xenon sơ mile rơ móc chạy trên đường cao tốc .

xenon tải chạy bằng hơi nước [sửa |sửa mã nguồn ]

Một xe tải hơi nước của Anh
xenon tải và xenon hơi đều có một tổ tiên chung : chiếc “ fardier ” chạy bằng hơi nước doctor of osteopathy Nicolas-Joseph Cugnot chế tạo năm 1769. Tuy nhiên, các xenon tải chạy bằng hơi nước rất phổ biến cho tới tận giữa thập niên 1800. Thời ấy đường sá chỉ được xây dựng cho ngựa và xenon ngựa, khiến cho những xenon tải đó ít có tính hữu dụng, thường chỉ chạy những đoạn đường ngắn từ nhà máy tới gallium xenon lửa gần nhất. Chiếc xenon kéo móc đầu tiên xuất hiện năm 1881, được kéo bởi một máy hơi nước tên là delaware Dion. Các xenon tải hơi nước đã được bán ở Pháp và Hoa Kỳ cho tới tận trước Thế chiến thứ nhất, và tại Vương quốc Anh cho đến đầu Thế chiến thứ hai .

Động cơ đốt trong [sửa |sửa mã nguồn ]

Năm 1895, Karl Benz thiết kế chiếc xenon tải đầu tiên trong lịch sử dụng động cơ đốt trong, một số chiếc sau đó được chuyển đổi bởi công ty xenon buýt đầu tiên : Netphener. Một xenon tải dùng động cơ đốt trong khác được chế tạo năm 1898 bởi Gottlieb daimler. Những hãng khác như Peugeot và Renault cũng chế tạo những chiếc xenon của riêng họ. Thời ấy xenon tải đa số dùng các động cơ hai eleven lanh và có thể chở 1500 đến 2000 kilogram. Năm 1904, 700 chiếc xenon tải hạng nặng đã được chế tạo tại Hoa Kỳ ; thousand vào năm 1907, 6000 vào năm 1910 và 25000 vào năm 1914.

Daimler-Lastwagen, 1896
Một xe tải của Benz được Netphener company (1895) chuyển đổi thành chiếc xe buýt đầu tiên
Sau Thế chiến thứ hai, nhiều cải tiến đã được ứng dụng : lốp xenon dùng không khí thay lốp cao su đặc, khởi động điện, phanh máy, động cơ six eleven lanh, buồng lái kín, đèn điện. Chiếc xenon kéo móc hiện đại đầu tiên cũng đã xuất hiện. Những nhà sản xuất xenon hơi du lịch như ford và Renault cũng đặt chân vào thị trường xenon tải .

Động cơ diesel [sửa |sửa mã nguồn ]

Dù đã được phát minh right ascension năm 1890, động cơ diesel vẫn không được áp dụng nhiều vào xenon tải tại châu Âu cho tới tận thập niên 1920. Ở Hoa Kỳ, khoảng thời gian để động cơ diesel được chấp nhận còn kéo dài hơn : các động cơ dùng xăng vẫn được dùng cho các xenon tải nặng trong thập niên 1970, trong chi ở châu Âu chúng đã được thay thế hoàn toàn từ twenty năm trước .

Những vấn đề pháp luật [sửa |sửa mã nguồn ]

xenon tải thường phải trả thuế cao hơn các loại xenon khác chạy trên đường, và là đối tượng phải chịu nhiều quản lý chặt chẽ hơn. Những yếu tố liên quan tới điều này : xenon tải lớn hơn và nặng hơn đa số các loại xenon khác, và chiếm nhiều diện tích đường cũng như gây hư hỏng đường nhiều hơn ; và các xenon tải với tài xế của chúng ở trên đường với thời gian nhiều hơn. Các xenon tải của up được gọi là package car ở Hoa Kỳ vì chúng được loại trừ khỏi một số loại thuế. Các quy định về thuế khác biệt tùy theo vùng tài phán. Đa số các vùng tài phán có những quy định đối với các phương tiện thương mại, quy định tài xế làm việc bao nhiêu giờ, bao nhiêu giờ nghỉ và ngủ tối thiểu ( ví dụ, eleven giờ làm/10 giờ nghỉ, và sixty giờ nghỉ trên seven ngày ), và nhiều quy định khác. Những hành six six phạm thường bị phạt nặng. Các dụng cụ kiểm soát thời gian làm việc của tài xế thường được lắp đặt đầy đủ. Các xenon tải cũng là đối tượng yêu cầu hạn chế tiếng ồn ( bắt đầu từ Luật kiểm soát tiếng ồn của Hoa Kỳ ) để bảo vệ mọi người khỏi những ảnh hưởng tới sức khỏe của tiếng ồn, bởi vì các xenon tải góp phần rất lớn vào tiếng ồn trên đường vì trọng lượng lớn và số lốp nhiều cũng như các tính năng khí động học gây tiếng ồn của chúng. Luật Cầu ( Bridge Law ) quy định quan hệ giữa tổng trọng lượng của xenon và số lượng trục và khoảng cách giữa các trục trước và sau của xenon. Mỗi nước xác định trọng lượng cho phép trên mỗi trục riêng .

Các kiểu xenon tải theo kích cỡ [sửa |sửa mã nguồn ]

Một xe tải chở gỗ

xenon tải hạng nhẹ [sửa |sửa mã nguồn ]

xenon tải hạng nhẹ là những xenon cỡ thường ( tại Hoa Kỳ không lớn hơn 6.300 kilogram, hay 13.000 pound ) và thường được sử dụng bởi các cá nhân cũng như các thực thể kinh tế. Chúng gồm :

Các xenon tải cỡ trung [sửa |sửa mã nguồn ]

xenon tải hạng trung lớn hơn xenon tải hạng nhẹ nhưng nhỏ hơn xenon hạng nặng. Ở Hoa Kỳ, chúng được xác định với khối lượng trong khoảng giữa 6.300 kilogram ( 13.000 pound ) và 15.000 kilogram ( 33.000 pound ). Đối với Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc ireland, ngưỡng giới hạn là 7,5 tấn. Những xenon tải chạy đường ngắn và phục vụ dịch vụ công cộng ( deck truck, xenon rác ) thường ở khoảng kích thước này .

Các xenon tải hạng nặng [sửa |sửa mã nguồn ]

Ba xe tải tàu hoả, West Australia
xenon tải hạng nặng là những xenon tải lớn nhất được phép chạy trên đường. Đa số chúng dùng cho vận tải đường dài, thường là kiểu xenon kéo móc. Tốc độ hư hại đường sá tăng nhanh chóng cùng với tải trọng trục ( trọng lượng xenon tải được phân bố trên số lượng trục ). Ở các quốc armed islamic group có chất lượng đường tốt một xenon tải sáu trục được cho phép có trọng lượng tối đa forty tấn. Tại australia nhiều xenon kéo móc được nối lại với nhau thành loại xenon được gọi là xenon tàu hỏa .

Các xenon tải không chạy trên các loại đường thông thường [sửa |sửa mã nguồn ]

Những chiếc xenon tải chạy trên xa lộ thỉnh thoảng cũng được trang bị các tính năng chạy trên đường phi tiểu chuẩn như trục lái trước ( front driving axle ) và một số lốp đặc biệt dùng cho khai thác gỗ và xây dựng. Những xenon tải không bao giờ chạy trên đường công cộng, như chiếc xenon tải khai thác mỏ cực lớn Liebherr thymine 282B, những xenon loại này không bị giới hạn trọng lượng .
Tất cả các xenon tải đều được chế tạo dựa trên những đặc tính chung : chúng có một human body, một cabin, các trục, hệ thống treo và các bánh xenon, một động cơ và một hệ thống lái. Các hệ thống khí nén, thủy lực, nước, và điện cũng có thể tiêu chuẩn hóa.

chassis hay khung của một xenon tải thường được chế tạo bởi hai xà, và nhiều thanh ngang ( crossmembers ) cùng với thanh nối ( fishplate ). human body một xenon tải gồm hai thanh xà thẳng, birdcall song, hình chữ uracil, hay trong một số trường hợp hình bậc hay hình nêm, chúng được nối với nhau bởi các thanh ngang. Trong đa số trường hợp, các thanh nối có tác dụng liên kết thanh ngang với thanh xà. Thanh nối thường được lấy từ các đường ray xenon lửa cũ. Chiều dài thanh xà khác nhau tùy loại xenon. chassis thường được làm bằng thép, nhưng cũng có thể làm bằng ( một phần hay toàn bộ ) nhôm để có trọng lượng nhẹ hơn. Thành phần hóa học ( carbon, molypđen, vân vân. ) và kết cấu của các thanh xà đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sức bền của nó và ngăn cản các thanh xà không bị nứt hay rời radium, giữ cho khung có tính dẻo và tính cứng. Không nên hàn, khoan cũng như tiến hành các sửa đổi không cần thiết đối với human body. chassis là cơ cấu chính của xenon tải, và những phần khác của xenon được lắp trên đó. Ở đầu và cuối chassis có thể có lắp móc kéo xenon .
cabin là một không gian kín nơi tài xế ngồi điều khiển. Một “ buồng ngủ” là một ngăn kín bên trong cabin nơi tài xế có thể nghỉ ngơi chi không làm việc. Nó có thể có kích thước nhỏ two đến four foot ( 0.6 đến 1.2 meter ) hay lớn tới twelve foot ( 3.7 molarity ) phòng ngủ lắp bánh xenon. Các cabin hiện đại có điều hòa không khí, một hệ thống âm thanh tốt, ghế ngồi thích hợp với người lái ( thường được treo bằng không khí ). Có thể có một số kiểu california bin :
Một xe tải chở bê tông.

  • Cabin trên động cơ (COE) hay mũi bằng, người lái ngồi ngay trên trục trước và động cơ. Kiểu thiết kế này thường thấy ở Châu Âu, nơi tổng chiều dài xe tải thường bị hạn chế. Trước kia chúng cũng là kiểu thường thấy ở Hoa Kì, nhưng từ đầu thập kỷ 1980 khi hạn chế chiều dài xe được nới lỏng nó dần mất đi ưu thế. Để sửa chữa hay bảo dưỡng động cơ, toàn bộ cabin sẽ được lật nghiêng ra phía trước, khiến kiểu thiết kế này còn được gọi là cabin nghiêng.
  • Ca bin quy ước là kiểu phổ thông nhất ở Bắc Mỹ. Tài xế ngồi phía sau động cơ, giống như ở hầu hết các kiểu xe hơi và xe bán tải khác. Các kiểu quy ước còn được phân chia nhỏ thành loại xe lớn và các thiết kế khí động học. Một xe lớn hay mũi dài là một xe tải quy ước với một mui dài từ 6 đến 8 foot (1.8 đến 2.4 m) hay dài hơn&mdash. Vì hình dạng của nó rất gần hình vuông, các xe tải đó có diện cản gió lớn và có thể tốn nhiên liệu hơn. Tầm nhìn của nó cũng kém hơn so với các đối thủ kiểu khí động học hay COE. Trái lại, các cabin khí động học có hình dạng khí động học rất hợp lý, với mui nghiêng và các đặc tính khác giúp hạn chế cản gió. Đa số người sử dụng đều thích kiểu thiết kế quy ước mui vuông, vì hình dáng hùng dũng của nó.
  • Cũng có các kiểu thiết kế cabin bên cạnh động cơ, nhưng hiếm hơn.
  • Những từ tiếng lóng:
    1. “Tiltin’ Hilton”: Cabin trên động cơ với giường ngủ.
    2. “Aardvark”: Thiết kế quy ước khí động học.
    3. “Hood”: Bất kỳ kiểu quy ước nào KHÔNG phải là một “aardvark”

xenon tải có thể sử dụng mọi kiểu động cơ. Những xenon tải nhỏ như sport utility hay bán tải và thậm chí xenon tải hạng trung ở Bắc Mỹ sử dụng động cơ xăng. Những xenon tải hạng lớn hơn dùng động cơ bốn kì với một bộ tăng áp động cơ ( Turbocharger ) và bộ làm mát khí nạp ( Intercooler ), dù vẫn có những kiểu khác. Những xenon tải siêu lớn không chạy trên đường dùng các động cơ tàu hỏa như động cơ hai kì V12 detroit diesel. Ở Hoa Kỳ, các xenon tải chạy trên đường cao tốc hầu như luôn dùng động cơ của một hãng thứ barium, ví dụ như của cat, Cummins, hay detroit diesel. Ngoại trừ duy nhất là các Volvo hand truck và macintosh truck, chúng dùng các động cơ diesel của Volvo và macintosh, và Freightliner, là một chi nhánh của DaimlerChrysler và dùng cả động cơ Mercedes-Benz và detroit diesel .

xenon tải kiểu tàu hoả [sửa |sửa mã nguồn ]

Các xenon tải nhỏ có cơ cấu truyền động tương tự hầu hết các loại xenon hơi khác với hoặc một hệ thống truyền động tự động hay một hệ thống truyền động thủ công với thiết bị đồng bộ. Các loại xenon tải lớn hơn thường sử dụng truyền động thủ công không có thiết bị đồng bộ với trọng lượng nhẹ hơn dù một số cơ cấu truyền động đồng bộ đã được áp dụng vào xenon tải nặng. Truyền động không đồng bộ đòi hỏi thao tác hai lần mỗi chi chuyển số có thể gây radium tổn thương do vận động lặp lại. Các tiêu chuẩn chung ở Bắc Mỹ gồm có truyền động tự động và truyền động bán tự động ten, thirteen và eighteen tốc độ đối với các xenon tải nặng và các tiêu chuẩn này ngày càng phổ biến, vì những ưu thế cả trong truyền động và sức mạnh động cơ. Khuynh hướng ở châu Âu là ngày càng có nhiều xenon tải mới áp dụng truyền động tự động. Điều này một phần có thể do những vụ kiện tụng của các tài xế cho rằng việc lái xenon truyền động thủ công gây hại cho đầu gối của họ .

Chất lượng và bán hàng [sửa |sửa mã nguồn ]

Số lượng xuất xưởng của các nhà sản xuất xenon tải hạng nặng nói chung tăng lên, tuy nhiên những chuyên armed islamic group bên trong ngành công nghiệp này cho rằng họ còn cả một chặng đường dài phía trước để đạt tới các tiêu chuẩn chất lượng mà các nhà sản xuất xenon hơi nói chung đã đạt được. Một phần trong số các nguyên nhân là seventy-five % tổng số xenon tải được chế tạo theo yêu cầu khách hàng. Việc này ngăn cản những nỗ lực tối ưu hóa hình dạng và tự động hóa dây chuyền lắp ráp .

Thị trường xenon tải nặng trên thế giới [sửa |sửa mã nguồn ]

( các nhà sản xuất chính xếp hạng theo doanh số bán năm 2003 )
Công ty nắm thị phần lớn nhất thế giới là DaimlerChrysler, với phân nhánh xenon thương mại Mercedes-Benz của họ chiếm tới twenty-two % thị phần thế giới. Các xenon thương mại của Mercedes-Benz như Freightliner, Mercedes-Benz, Setra, greatest ( ford truck cũ ), westerly star, Mitsubishi Fuso truck và busbar ( forty-three % ; Nhật Bản ), và Hyundai truck ( fifty % ; Hàn Quốc ), bán 200.000 đến 250.000 chiếc trên khắp thế giới trong năm qua. [ one ] Lưu trữ 2006-03-19 tại Wayback machine
Các công ty có đội xenon nhỏ, chuyên vận tải, và những nhà điều hành tư nhân thường có xu hướng ưa chuộng macintosh hay Peterbilt và các sản phẩm của Kenworth. Các công ty lớn và các tổ chức công cộng thì chuộng loại có giá rẻ hơn như Freightliner, Navistar, và các sản phẩm của ford. Cũng có những sở thích tùy theo từng vùng của các tài xế xenon tải tại Hoa Kỳ. Ở Bờ biển phía đông, nơi đường sá nói chung là ngắn hơn, và bởi vì các xenon tải được sản xuất tại đó, nhiều tài xế thích xenon tải macintosh. Trong chi ở Bờ biển phía Tây, các tài xế ưa chuộng Peterbilt, Kenworth, và Freightliner. white đã xây dựng một nhà máy mới tại california đầu thập niên 1960, cùng với công ty xenon tải lớn consolidated Freightways. Công ty đó trở thành White-Freightliner, và sau đó rút gọn còn Freightliner, cung cấp trực tiếp xenon tải cho các hãng điều hành có nhu cầu về loại xenon có cabin và khung nhôm nhẹ hơn, tầm hoạt động trực tiếp lớn hơn mà không cần dừng giữa chừng. Các tài xế thường quan tâm tới vấn đề associate in nursing toàn hơn là tiết kiệm nhiên liệu, vì thế họ thích loại xenon nặng của Peterbilts và Kenworths. Kenworth và Peterbilt, vốn đã chế tạo các xenon tải nặng cho công nghiệp khai thác gỗ, các sản phẩm lâm nghiệp, chở thép cho các xưởng đóng tàu ở Bờ biển phía đông, dự đoán nhu cầu loại xenon tải nhẹ hơn với tầm hoạt động xa hơn sẽ tăng trong tương lai .
Iveco, homo silver, Mercedes-Benz hand truck, PACCAR ( DAF hand truck, Leyland hand truck ), Scania ab, và Volvo truck ( không nên nhầm lẫn với Volvo Personvagnar, hiện thuộc ford motor company ), chúng là những nhà sản xuất xenon tải hàng đầu ở Tây Âu. Ở Đông Âu, Škoda, Tatra, Zastava và GAZ là những mác xenon thông dụng, bởi vì chúng từng là những thương hiệu của vùng thuộc quyền kiểm soát Xô viết .
Các nhà sản xuất xenon tải hàng đầu

  • Hyundai-Kia (Hàn Quốc)
  • Yuejin Motors (Vọt Tiến – Trung Quốc)
  • Daewoo, bây giờ là Tata-Daewoo (Hàn Quốc – Ấn Độ)
  • Dong Feng (Đông Phong) (Trung Quốc)
  • Mitsubishi (Nhật Bản)
  • Tata Motors (Ấn Độ, trước kia gọi là Telco)
  • Hino (Nhật Bản)(liên doanh với Scania và Renault)
  • Isuzu (Nhật Bản)
  • Iveco (Italia, nhưng có các cơ sở tại châu Á)
  • Nissan Diesel (Nhật Bản)
  • Jac Motors (Trung Quốc)
  • SINOTRUCK – CNHTC (Trung Quốc)

Những đăng ký xenon tải nặng tại Nam Mỹ ( 2002 ; % giảm theo nhà sản xuất ) :

  • DaimlerChrysler
  • Scania
  • Mack Trucks

Liên kết ngoài [sửa |sửa mã nguồn ]

Dịch vụ liên quan

Mercedes-Benz CLA-Class

The Mercedes-Benz CLA class cost a series of luxury compact executive cable car manufactured by...

[HCM] Công Ty Mercedes-Benz Việt Nam Tuyển Dụng Thực Tập Sinh Logistics Full-time 2021

- Tính chất công việc : Thực tập ; Toàn thời gian - Reading: [HCM]...

2010 Spot To Watch: Mercedes-Benz Arena In Shanghai | Jing Daily

Sponsorship Of AEG Arena, Set To Open Before World Expo Next Year, Is Mercedes-Benz’s First...

Best stadiums for FIFA 21 Ultimate Team

every capital club want information technology own fortress. can your opposition practice information technology on...

BTS Singer Jungkook Under Investigation After Crashing Mercedes Benz Into Taxi

BTS member Jeon Jungkook embody constitute investigate by police subsequently crash his Mercedes Benz into...

Mercedes-Benz Debuts S400 HYBRID With Advanced Lithium-Ion Battery Technology

Mercedes-Benz embody launch associate in nursing innovative S400 hybrid model for the 2010 model year....
Alternate Text Gọi ngay