Hùng Vương – Wikipedia tiếng Việt
Hùng Vương ( chữ Hán : 雄王 ) hay vua Hùng ( chữ Nôm : 𤤰雄 ) là cách gọi dành cho các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt, tồn tại vào khoảng thế kỷ seven tới thế kỷ two trước công nguyên .
Trong sử liệu Việt Nam, Hùng Vương được nhắc đến trong Lĩnh Nam chích quái ( đời Lý-Trần ) cùng truyền thuyết Âu Cơ – Lạc long Quân. Đại Việt sử lược đời Trần cũng có ghi chép “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được eighteen đời đều xưng là Hùng Vương. ” [1] (có bản dịch là Đối Vương, 碓王). Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê chính thức đưa Hùng Vương làm quốc tổ. Trong sử liệu Trung Quốc, danh xưng “ Hùng Vương ” được ghi chép trong sách Thái Bình quảng ký, thế kỷ thứ adam, dẫn Nam Việt chí khoảng thế kỷ five : “ Vùng đất Giao Chỉ rất màu mỡ, di dân đến ở, thoạt đầu biết trồng cấy. Đất đen xốp. Khí đất hùng ( mạnh ). Vì vậy ruộng ấy gọi là ruộng Hùng, dân ấy là dân Hùng. ”
Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, fifty-three, Sách ẩn ( thời Nhà Đường – Tư Mã Trinh soạn ) dẫn Quảng châu kí chép :
Reading: Hùng Vương – Wikipedia tiếng Việt
- “Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê.
Cựu Đường thư ( viết thời Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, năm 945 SCN ), quyển forty-one, Chí twenty-one, Địa lí four, dẫn Nam triều công nghiệp diễn chí ( viết thời Lưu Tống, 420 – 479 ) chép :
- “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu…”.
Đoạn này tương tự với miêu tả về Giao Chỉ trong Quảng Châu ký ( thế kỷ four ) và Thủy Kinh chú ( thế kỷ six ) trích Giao Châu ngoại vực ký thế kỷ four. Tuy nhiên các sách này không ghi là “ Hùng Vương ” ( 雄王 ) mà ghi là “ Lạc Vương ” ( 雒王 ). Hai chữ này viết gần giống nhau nên có thể đã có sự nhầm lẫn chi ghi chép .
Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ i là memorize trai của Lạc long Quân, lên ngôi vào năm 2524 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm fifteen bộ, truyền đời đến năm 258 trước công nguyên thì bị Thục Phán ( associate in nursing Dương Vương ) của tộc Âu Việt chiếm mất nước. [ two ] Truyền thuyết về Hùng Vương được ghi chép lại lần đầu tiên vào cuối đời Trần tại Hồng Bàng Thị truyện trong sách Lĩnh Nam Trích quái ; sau đó được sử armed islamic group Ngô Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử kí Toàn thư ở cuối thế kỉ fifteen. [ three ] Xưa cháu bachelor of arts đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh right ascension Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh radium Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi ( anh trai Lộc Tục ) là convict nối ngôi, cai quản phương Bắc là nước Xích Thần, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, các bộ tộc Bách Việt, gọi là nước Xích Quỷ. [ four ] Kinh Dương Vương chi xuống Thủy phủ, đã lấy victimize gái hanker Vương Động Đình Quân tên là Thần long long Nữ sinh ra Lạc farseeing Quân. Lạc long Quân thay cha trị nước Xích Quỷ, còn Kinh Dương Vương không biết rõ đã đi đâu sau chi truyền vị. Đế Nghi truyền ngôi cho bunco trai là Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu convict gái của mình là Âu Cơ ở lại đó. [ five ] Lạc farseeing Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mỹ lệ, Âu Cơ ưng theo, Lạc long Quân liền rước nàng về núi long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh right ascension bọc trăm trứng, sinh ra trăm người convict trai anh dũng phi thường. Lạc retentive Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc long Quân :
- Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh được một trăm con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, không vợ, một mình vò võ.
Lạc long Quân bảo rằng :
- Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc; nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau.[5]
Âu Cơ cùng năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người memorize trưởng lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. [ five ] Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước right ascension làm fifteen bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức ; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, sử armed islamic group Ngô Sĩ Liên có lời bàn :
Lãnh thổ của nước Văn Lang được xác định ở khu vực đồng bằng sông Hồng, phía đông bắc giáp với Âu Việt, phía tây bắc thuộc các tỉnh miền bắc Việt Nam và một phần đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay, phía đông giáp với biển Đông, phía tây tiếp giáp và chạy dọc theo dãy núi Hoàng Liên Sơn ( thuộc Lào Cai, Sơn lanthanum ngày nay ), phía nam giáp Hồ Tôn Tinh ( hay Hồ Tôn ), một quốc armed islamic group Champa cổ. Dân số của Văn Lang khoảng forty, fifty vạn người, chủ yếu phân bố ở khu vực trung du, hạ du sông Hồng và sông Mã. Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố Chính, thần bộc, nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền bunco nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi. [ seven ] Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép phần đầu tiên đặt tên là Kỷ Hồng Bàng thị, three tiểu mục là Kinh Dương Vương, Lạc long Quân và Hùng Vương. Sách Lĩnh Nam chích quái đặt tên là Truyện Hồng Bàng. [ eight ] Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục : Theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng chép. Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng: đều dùng ấn đồng thao xanh. Nước gọi là Văn Lang. Phong tục thuần hậu, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám chi. [ nine ] Có một số nguồn sử học viết về lãnh thổ của vua Hùng, phía tây đến bachelor of arts Thục ( Tứ Xuyên, Trung Quốc ), phía bắc đến hồ Động Đình ( Hồ Nam, Trung Quốc ), phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, [ seven ] là nhầm lẫn với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của người Bách Việt cổ. Nước Văn Lang thuộc tộc người Lạc Việt chỉ là một trong số những tộc người Bách Việt, và cũng là tổ tiên của người Kinh ngày nay. Lạc Việt cùng với Âu Việt là two tộc người Bách Việt sống tại vùng đất phía nam. Sau này associate in nursing Dương Vương ( tên thường gọi là Thục Phán ), vua nước Âu Việt ( nằm ở phía tây bắc nước Văn Lang ), đánh bại vua Hùng của nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc. Dân số Âu Lạc thời đó cũng chỉ khoảng seventy vạn, eighty vạn người. Nếu lãnh thổ Văn Lang muốn giáp barium Thục, Tứ Xuyên và Hồ Động Đình, Hồ Nam thì phải bao gồm cả các tỉnh Quý Châu ( diện tích 176.167 km² ) và Hồ Nam ( diện tích 210.000 km² ), phần lớn tỉnh Vân Nam ( diện tích 394.000 km² ), một phần tỉnh Quảng Tây ( diện tích 236.700 km² ) của Trung Quốc .
Theo truyền thuyết, năm 2557-2258 TCN, tức năm Mậu Thân thứ five đời Đường Nghiêu, Hùng Vương sai sứ sing tặng vua Nghiêu con rùa thần có lẽ hơn nghìn tuổi, mình rùa hơn barium thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ chi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch ( lịch rùa ). Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết chứ không có ghi chép chính sử xác nhận. Năm 1110 TCN, chính sử Trung Quốc ghi rằng có xứ Việt Thường sai sứ qua tặng Chu Thành vương một con chim trĩ trắng. [ ten ]
Thời Lạc hanker Quân trị vì, nhà vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn titanium, có luân thường về cha bunco, vợ chồng. Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao hanker làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo rằng : Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn lấy mực xăm hình thủy quái ở thân thể, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của Bách Việt bắt đầu từ đây. bachelor of arts in nursing đầu make ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh ; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm ; lấy rễ gừng làm muối ; lấy dao cày, lấy nước cấy, đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Gác cây làm nhà để tránh hổ báo ; cắt ngắn đầu để tiện vào rừng núi, bunco đẻ right ascension lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã cối gạo để cho hàng xóm nghe chạy đến giúp. Trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông. [ five ]
“ Lúc bây giờ, vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc. Dân đều vẽ mình, uống nước bằng mũi, cùng nhau vui chơi vô tích sự.[11] ” — Lịch triều hiến chương loại chí Lãnh thổ nước Văn Lang được sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép : Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam ngày nay. Hùng Vương chia nước Văn Lang làm fifteen bộ là Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, đóng đô ở bộ Văn Lang. Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái thì fifteen bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận. Mười lăm bộ theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép từ sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Túng :
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, cuối thời Hùng Vương, vua có người con gái vô cùng xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, liền sai người đến cầu hôn. Hùng hầu can rằng Thục vương chỉ lấy cớ hôn nhân để xâm lược mà thôi. Thục vương đem lòng oán giận. Về sau Hùng Vương gả bunco gái cho Sơn Tinh, Thục vương căm giận, căn dặn con cháu phải diệt nước Văn Lang. [ twelve ] Cháu Thục vương là Thục Phán nối ngôi, có dũng lược, đem quân xâm lược Văn Lang. Hùng Vương có binh hùng tướng mạnh đánh bại Thục Phán. Hùng Vương bảo Thục Phán rằng : Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư?, rồi bỏ bê đất nước, chỉ lo ăn uống vui chơi. chi quân Thục kéo sát đến nơi, vua còn say mềm chưa tỉnh. Tỉnh dậy, Hùng Vương cùng đường, thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng Thục Phán. Từ đây trong sử sách nước Việt bước sing kỷ mới gọi là Kỷ nhà Thục. [ twelve ] Sử armed islamic group Ngô Sĩ Liên cho rằng chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh rất quái đản, chỉ tạm thuật lại để truyền lại sự nghi ngờ. [ twelve ]Các đời vua [sửa |sửa mã nguồn ]
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương ( 2879 TCN ) cho đến hết thời Hùng Vương ( năm 258 TCN ) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán ( tức associate in nursing Dương Vương ) thôn tính. [ thirteen ] [ fourteen ]
Các vị Hùng Vương
Đời vua Vương hiệu Chữ Hán Nôm Năm sinh Năm mất Ghi chú Thượng Tổ Kinh Dương Vương 涇陽王 2919 TCN[15] 2792 TCN Húy là Lộc Tục (祿續), thuộc chi Càn. Thái Tổ Lạc Long Quân 駱龍君 ~2825 TCN Không rõ Hiệu là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君). Húy là Sùng Lãm (崇纜), thuộc chi Khảm. 1 Hùng Đức Vương 雄德王 Không rõ Người con cả của Lạc Long Quân, thuộc chi Khảm.
Thành lập Vương triều thứ nhất .2 Hùng Hiền vương 雄賢王 Thuộc chi Khảm.
Thành lập Vương triều thứ hai .3 Hùng Lân vương 雄麟王 Xưng bởi Lân Lang, thuộc chi Cấn (支艮).
Thành lập Vương triều thứ bachelor of arts .4 Hùng Diệp vương 雄曄王 Xưng bởi Bửu Lang, thuộc chi Chấn (支震).
Thành lập Vương triều thứ tư .5 Hùng Hi vương 雄犧王 Xưng bởi Viên Lang, thuộc chi Tốn (支巽).
Thành lập Vương triều thứ năm. Phần bên trái chữ “ hello ” 犧 là bộ “ ngưu “ 牛 .6 Hùng Huy vương 雄暉王 Xưng bởi Pháp Hải Lang, thuộc chi Ly (支離).
Thành lập Vương triều thứ sáu .7 Hùng Chiêu vương 雄昭王 Xưng bởi Lang Liêu, thuộc chi Khôn.
Thành lập Vương triều thứ bảy .8 Hùng Vĩ vương 雄暐王 Xưng bởi Thừa Vân Lang, thuộc chi Đoài (支兌).
Thành lập Vương triều thứ tám .9 Hùng Định vương 雄定王 Xưng bởi Quân Lang, thuộc chi Giáp (支甲).
Thành lập Vương triều thứ chín .10 Hùng Hi vương 雄曦王 Xưng bởi Hùng Hải Lang, thuộc chi Ất (支乙).
Thành lập Vương triếu thứ mười. Phần bên trái chữ “ hello ” 曦 là bộ “ nhật “ 日 .11 Hùng Trinh vương 雄楨王 Xưng bởi Hưng Đức Lang, thuộc chi Bính (支丙).
Thành lập Vương triều thứ mười một .12 Hùng Vũ vương 雄武王 Xưng bởi Đức Hiền Lang, thuộc chi Đinh.
Thành lập Vương triều thứ mười hai .13 Hùng Việt vương 雄越王 Xưng bởi Tuấn Lang, thuộc chi Mậu (支戊)
Thành lập Vương triều thứ mười bachelor of arts .14 Hùng Anh vương 雄英王 Xưng bởi Chân Nhân Lang, thuộc chi Kỷ (支己).
Thành lập Vương triều thứ mười bốn15 Hùng Triêu vương 雄朝王 Xưng bởi Cảnh Chiêu Lang, thuộc chi Canh (支庚).
Thành lập Vương triều thứ mười lăm .16 Hùng Tạo vương 雄造王 Xưng bởi Đức Quân Lang, thuộc chi Tân (支辛).
Thành lập Vương triều thứ mười sáu .17 Hùng Nghị vương 雄毅王 Xưng bởi Bảo Quân Lang, thuộc chi Nhâm.
Thành lập Vương triều thứ mười bảy .18 Hùng Duệ vương 雄睿王 258 TCN Xưng bởi Lý Văn Lang hoặc Mai An Tiêm.
Thành lập Vương triều thứ mười tám .Chú ý: “ 雄犧王 ” và “ 雄曦王 ” tuy đều đọc là “ Hùng hawaii Vương ” nhưng chữ “ hello ” trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa .
Trong cuốn Việt Sử tiêu án viết năm 1775, tác giả Ngô Thì Sĩ tỏ radium băn khoăn : “Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được?” Hùng Vương thứ one sinh năm 2879 trước công nguyên, Hùng Vương thứ eighteen lại mất năm 258 trước công nguyên. Nếu tính theo độ tuổi trung bình thì mỗi vị vua sống tới one hundred forty-five năm ( ! ? ), quá chênh lệch indeed với hiện tại. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong “Thế thứ các triều vua Việt Nam” [ sixteen ] thì giải thích vấn đề này thuộc một trong hai quan điểm đang được các nhà sử học tạm chấp nhận : eighteen vị vua Hùng không phải là eighteen cá nhân cụ thể, mà là eighteen qi ( nhánh/ngành ), mỗi qi này lại gồm có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí bunco số eighteen có thể chỉ nên hiểu là victimize số tượng trưng ước lệ, vì eighteen là bội số của nine – vốn là một số thiêng đối với người Việt. Cũng có những giả thuyết về một quốc armed islamic group cổ là Việt Thường. Cổ sử Trung Hoa có chép : vào thời Chu Thành Vương ( 1042-1021 TCN ) có người ở Việt Thường đến dâng chim trĩ trắng. chi sứ giả Việt Thường về nước, vì không biết đường nên Chu Công đã cho lấy năm cỗ xenon bình xa ( 軿車, xenon có màn che thời xưa ) sửa thành xenon chỉ nam rồi cấp cho sứ giả để giúp sứ giả xác định phương hướng. Có thể đặt ra giả thiết : hoặc Văn Lang là nhà nước kế tục Việt Thường, chi Văn Lang thay thế Việt Thường đã đặt tên Việt Thường làm một trong fifteen bộ của mình ; hoặc Việt Thường là một bộ lạc trong nhà nước Văn Lang. Cả Văn Lang và Việt Thường đều có thể xếp vào thời kỳ những vua Hùng, tên nước thì có thể đặt từ chi thành lập để gọi nhưng tên thời đại Hồng Bàng thì chắc chắn sau này các sử armed islamic group tự đặt cho dễ sắp xếp và theo dõi. Theo Liam C. Kelley, trong các nghiên cứu văn hóa đồng bằng sông Hồng của ông, thì các vua Hùng là truyền thuyết về các đời vua Hùng là act giới trí thức Nho học tại đồng bằng sông Hồng thời trung đại sử dụng như một minh chứng cho bản sắc riêng, tách biệt với các khái niệm thuộc di sản văn hóa mà người Trung Hoa du nhập vào Việt Nam. Và rồi chính họ đã dựa vào những văn bản xưa cổ để lấy chất liệu và cảm hứng nhằm kiến tạo một lịch sử cũng như một bản sắc bản địa cho bản thân mình, act đó đã đóng góp cho việc sáng tạo radium một bản sắc địa phương. Theo ông, truyền thuyết về vua Hùng vốn được bắt đầu bởi giới tinh hoa Hán hóa ở miền Bắc Việt Nam thời trung đại được người Việt Nam ngày nay dựa vào để phát triển trong suốt nửa thế kỉ qua. Dưới sự qi phối của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, những truyền thống được kiến tạo của giới tinh hoa thời trung đại này giờ đây đã trở thành những chân lí không thể thay đổi dù người tantalum bắt đầu xét lại lịch sử. [ three ]
Vào thời nhà Nguyễn, miếu Lịch Đại Đế Vương được dựng từ năm Minh Mạng thứ four ( 1823 ) trên địa phận xã Dương Xuân, phía nam, ngoài kinh thành Huế, thờ nhiều nhân vật trong đó có Kinh Dương Vương, Lạc long Quân, Hùng Vương. [ seventeen ] [ eighteen ] Giỗ Tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của người Việt nhằm tưởng nhớ công lao dựng nước của các vua Hùng. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào ngày mồng ten tháng three âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm. Năm 1954, Hồ Chí Minh có buổi gặp mặt với binh lính các Trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn thirty-six, trung đoàn Tu Vũ …, đã nói rằng : “Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. [ nineteen ] Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều cơ sở thờ tự vua Hùng được bà convict thành lập để thờ phượng như Đền thờ Hùng Vương tại hẻm 22/93 đường Trần Bình Trọng tại phường one ở quận five được xây dựng trước năm 1970, ngoài ra còn có Tổ đình Quốc Tổ Lạc Hồng tại số ninety-four đường Nguyễn Thái Sơn quận Gò Vấp, Đền Hùng Vương tại số 261/3 đường Cô Giang ở quận Phú Nhuận và Đền thờ Quốc tổ Hùng Vương tại số 166/3 đường Đoàn Văn Bơ ở Quận four [ twenty ]Read more : Tiếng Ai Cập – Wikipedia tiếng Việt
Tên Hùng Vương cũng được đặt cho các tên đường, phố, trường học ở Việt Nam .
Đền thờ và lăng mộ [sửa |sửa mã nguồn ]
Liên kết ngoài [sửa |sửa mã nguồn ]