Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014
Ngày đăng: 21/01/2016, 00:07
Xem thêm: 6 Kỹ Thuật Tự Vệ Từ Chuyên Gia Võ Thuật Bạn Nên Bỏ Túi – Tân Việt – Võ Phục và Dụng Cụ Võ Thuật
Đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LƠP 10 THPT TỈNH BÌNH DƯƠNG Năm học 2014 – 2015 ĐỀ CHÍNH THỨC MÔN THI: VĂN Ngày thi: 27 tháng 6 năm 2014 Thời gian làm bài: 120 phút Câu 1 (2,0 điểm) Cho đoạn văn sau: “-Gian khổ nhất là lần ghi vào báo về lúc một giờ sáng. Rét bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay ra tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vấn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vươn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: Nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung.” a) Đoạn văn trên trích từ tác phẩm nào? Nêu tên tác giả. b) Xác định đoạn văn là lời của nhân vật nào? Nhận xét về công việc của nhân vật (tìm những chi tiết trong đoạn văn để chứng minh). Câu 2. (1.0 điểm) Tìm câu chứa hàm ý và xác định nội dung của hàm ý đó trong câu thơ sau: Ngủ Yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ! Cánh cỏ mềm mẹ đã sẵn tay nâng. (Chế Lan Viên – Con cò) Câu 3. (2,0 điểm) Viết một đoạn văn bản nghị luận xã hội (khoảng 10 – 15 dòng) nêu suy nghĩ của em về đức tính khiêm nhường. Câu 4. (5,0 điểm) Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Ngữ văn 9, tập hai, trang 70 NXB Giáo dục 2007 Đăng ký nhận điểm thi vào lớp 10 tỉnh Bình Dương năm 2014 nhanh nhất, soạn tin: THI (dấu cách)BINHDUONG(dấu cách)SBD gửi 8712 VD: SBD của bạn là 18007 thi tại Bình Dương Soạn tin: THI BINHDUONG 18007 gửi 8712 Gợi ý đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014 Câu 1 (2,0 điểm) a, Đoạn văn trên trích từ tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa, tác giả Nguyễn Thành Long b, Đoạn văn là lời của nhân vật thanh niên, nhân vật chính trong truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long kể về công việc làm của mình cho ông họa sĩ già và cô kỹ sư nông nghiệp trẻ, qua lời giới thiệu của bác lái xe, lên thăm nơi ở và làm việc của anh thanh niên trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét trong thời gian ba mươi phút. Câu 4. (5,0 điểm) Sang thu là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích, gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt đến. Sang thu thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi thu sớm. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta. Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. (Đây mùa thu tới) Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê được “phủ vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn mẹ mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se. “Phủ” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm lựng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu “se” lành lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn mà phả vào đất trời và hồn người. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Nguyễn Đình Thi,… đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước: Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới… (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Qua đó, ta thấy “hương ổi” trong bài Sang thu là một tứ thơ mới, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh. Sau “hương ổi” và “ gió se”, nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh… Khói thu xây thành” trong Cam thu tiễn thu của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun” (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian: Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu đã về. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận. Chữ “se” vần với chữ “về” (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm. Không gian nghệ thuật của bức tranh Sang thu được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: “Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ” (Tức cảnh chiều thu – Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình làm chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ… Chim bay “vội vã”, đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã” ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong Thu vịnh: Một tiếng trên không ngỗng nước nào… Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều đươc nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ như lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,… mà lại dùng chữ “ vắt”. Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo; cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo. Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu: Vẫn còn bao nhiêu nắng. Đã vơi dần cơn mưa. Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn mùa thu, vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi” là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài Sang thu. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn: Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Hữu Thỉnh viết bài thơ Sang thu vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất, nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy. Sang thu là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố xuất bản vào tháng 5 – 1985. Bao cảm xúc dâng đầy, những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị. Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong Sang thu. Thơ ngũ ngôn trong Sang thu thể hiện một cách cảm, cách. Đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LƠP 10 THPT TỈNH BÌNH DƯƠNG Năm học 2014 – 2015 ĐỀ CHÍNH THỨC MÔN THI: VĂN Ngày thi: 27 tháng năm 2014 Thời gian làm bài: 120 phút Câu (2,0 điểm) Cho đoạn văn sau: “-Gian khổ lần ghi vào báo lúc sáng Rét bác Ở có mưa tuyết Nửa đêm nằm chăn, nghe chuông đồng hồ muốn đưa tay tắt Chui khỏi chăn, đèn bão vặn to đến cỡ vấn thấy không đủ sáng Xách đèn vươn, gió tuyết lặng im bên chực đợi ào xô tới Cái lặng im lúc thật dễ sợ: Nó bị gió chặt khúc, mà gió giống nhát chổi lớn muốn quét tất cả, ném vứt lung tung.” a) Đoạn văn trích từ tác phẩm nào? Nêu tên tác giả b) Xác định đoạn văn lời nhân vật nào? Nhận xét công việc nhân vật (tìm chi tiết đoạn văn để chứng minh) Câu (1.0 điểm) Tìm câu chứa hàm ý xác định nội dung hàm ý câu thơ sau: Ngủ Yên! Ngủ yên! Cò ơi, sợ! Cánh cỏ mềm mẹ sẵn tay nâng (Chế Lan Viên – Con cò) Câu (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 10 – 15 dòng) nêu suy nghĩ em đức tính khiêm nhường Câu (5,0 điểm) Phân tích thơ Sang Thu Hữu Thỉnh Bỗng nhận hương ổi Phả vào gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình thu Sông lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa sang thu Vẫn nắng Đã vơi dần mưa Sấm bớt bất ngờ Trên hàng đứng tuổi Ngữ văn 9, tập hai, trang 70 NXB Giáo dục 2007 Đăng ký nhận điểm thi vào lớp 10 tỉnh Bình Dương năm 2014 nhanh nhất, soạn tin: THI (dấu cách) BINHDUONG(dấu cách)SBD gửi 8712 VD: SBD bạn 18007 thi Bình Dương Soạn tin: THI BINHDUONG 18007 gửi 8712 Gợi ý đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014 Câu (2,0 điểm) a, Đoạn văn trích từ tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa, tác giả Nguyễn Thành Long b, Đoạn văn lời nhân vật niên, nhân vật truyện Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long kể công việc làm cho ông họa sĩ già cô kỹ sư nông nghiệp trẻ, qua lời giới thiệu bác lái xe, lên thăm nơi làm việc anh niên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét thời gian ba mươi phút Câu (5,0 điểm) Sang thu thơ ngũ ngôn Hữu Thỉnh, nhiều người ưa thích, gồm có ba khổ thơ; khổ thơ bốn câu nét thu đẹp êm đềm đất trời, tạo vật buổi đầu thu – thu về, thu đến Sang thu thể bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả cảm nhận, rung động man mác, bâng khuâng tác giả trước vẻ đẹp biến đổi kì diệu thiên nhiên buổi thu sớm Đối tượng cảm nhận cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê miền Bắc đất nước ta Với thi sĩ Xuân Diệu tín hiệu đầu thu sắc “mơ phai” bàn tay tạo hóa “dệt” nên muôn ngàn cây: Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt vàng (Đây mùa thu tới) Nhưng với Hữu Thỉnh “hương ổi” vườn quê “phủ vào” gió thu se lạnh Cái hương vị nồng nàn nơi vườn mẹ mà tuổi thơ mang theo tâm hồn, suốt đời: Bỗng nhận hương ổi Phả vào gió se “Phủ” nghĩa bốc mạnh tỏa thành luồng (Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê) Hữu Thỉnh không tả mà gợi, đem đến cho người đọc liên tưởng màu vàng ươm, hương thơm lựng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ trái ổi chín nơi vườn quê ngày cuối hạ, đầu thu Vì gió thu “se” lành lạnh, nên hương ổi thêm nồng nàn mà phả vào đất trời hồn người Nhiều người biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Nguyễn Đình Thi, viết thật hay hương cốm Vòng (Hà Nội), nét đẹp mến yêu hương vị mùa thu quê hương đất nước: Sáng mát sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Qua đó, ta thấy “hương ổi” Sang thu tứ thơ mới, đậm đà màu sắc dân dã Hữu Thỉnh Sau “hương ổi” “ gió se”, nhà thơ nói đến sương thu Cũng “Sương thu lạnh Khói thu xây thành” Cam thu tiễn thu Tản Đà Cũng giọt sương lạnh tiếng thu buồn ngày xa xưa: “Cành sương đượm, tiếng trùng mưa phun” (Chinh phụ ngâm) Mà sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian: Sương chùng chình qua ngõ Hình thu Sương thu nhân hóa; hai chữ “chùng chình” diễn tả thơ bước chầm chậm mùa thu Nếu từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên hai chữ “hình như” thể đoán nét thu mơ hồ vừa phát cảm nhận Chữ “se” vần với chữ “về” (vần chân, vần bằng, vần cách) góp phần tạo nên phong phú vần điệu nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm Không gian nghệ thuật tranh Sang thu mở rộng, chiều cao, độ rộng bầu trời với cánh chim bay đám mây trôi, chiều dài dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo: Sông lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa sang thu Sông mùa thu miền Bắc nước ta nước xanh, êm đềm trôi: “Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ” (Tức cảnh chiều thu – Bà Huyện Thanh Quan) Sông nước đầy nên “dềnh dàng”, nhẹ trôi cố tình làm chậm chạp, thiếu khẩn trương, để nhiều Chim bay “vội vã”, đàn cu ngói, đàn sâm cầm, đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay phương Nam Trong số đàn chim bay “vội vã” phải có đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến nói tới Thu vịnh: Một tiếng không ngỗng nước Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đươc nhân hóa Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị Hữu Thỉnh không dùng từ ngữ lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi, mà lại dùng chữ “ vắt” Có đám mây mùa hạ Vắt nửa sang thu Mây kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang bầu trời, buông thõng xuống Câu thơ tả đám mây mùa thu Hữu Thỉnh hay độc đáo; cách chọn từ dùng từ sáng tạo Khổ thơ cuối nói lên vài cảm nhận suy ngẫm nhà thơ nhìn cảnh vật ngày đầu thu: Vẫn nắng Đã vơi dần mưa Sấm bớt bất ngờ Trên hàng đứng tuổi Nắng, mưa, sấm, tượng thiên nhiên thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu Hữu Thỉnh cảm nhận cách tinh tế Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả hay thời lượng hữu vật, thiên nhiên nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu Mùa hạ níu giữ Nắng, mưa, sấm mùa hạ vương vấn mùa thu, vương vấn hàng đất trời Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh mà nhà thơ suy ngẫm đời “Sấm” “hàng đứng tuổi” ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa Sang thu Nắng, mưa, sấm biến động thiên nhiên, mang ý nghĩa tượng trưng cho thay đổi, biến đổi, khó khăn thử thách đời Hình ảnh “hàng đứng tuổi” ẩn dụ nói lớp người trải, luyện nhiều gian khổ, khó khăn: Sấm bớt bất ngờ Trên hàng đứng tuổi Hữu Thỉnh viết thơ Sang thu vào đầu năm 80 kỉ trước Lúc giờ, đất nước ta độc lập thống nhất, đứng trước nhiều khó khăn, thử thách kinh tế, xã hội Hai câu kết thơ mang hàm nghĩa khẳng định lĩnh cứng cỏi tốt đẹp nhân dân ta năm tháng gian khổ, khó khăn Sang thu thơ hay Hữu Thỉnh, in tập thơ Từ chiến hào tới thành phố xuất vào tháng – 1985 Bao cảm xúc dâng đầy, vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên cảnh thu, sắc thu rực rỡ Chỉ số nét chấm phá, tả mà gợi nhiều tác giả làm lên hồn thu nhẹ, sáng, êm đềm, mênh mang đầy thi vị Nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ tinh tế thành công Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp sâu sắc Sang thu Thơ ngũ ngôn Sang thu thể cách cảm, cách … 8712 VD: SBD bạn 18007 thi Bình Dương Soạn tin: THI BINHDUONG 18007 gửi 8712 Gợi ý đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Bình Dương năm 2014 Câu (2,0 điểm) a, Đoạn văn trích từ tác phẩm Lặng… Ngữ văn 9, tập hai, trang 70 NXB Giáo dục 2007 Đăng ký nhận điểm thi vào lớp 10 tỉnh Bình Dương năm 2014 nhanh nhất, soạn tin: THI (dấu cách) BINHDUONG(dấu cách)SBD gửi 8712 VD: SBD bạn 18007 thi. .. Nội), nét đẹp mến yêu hương vị mùa thu quê hương đất nước: Sáng mát sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Qua đó, ta thấy “hương ổi” Sang thu tứ thơ mới, đậm đà
Source: https://dichvusuachua24h.com
Category : Đào Tạo