II- CÁC LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ THUỘC TRƯỜNG PHÁI TÂM LÝ-XÃ HỘI.
Ngay những thập niên đầu của thế kỷ XX, trong khi các lý thuyết quản trị Cổ điển đang thịnh hành thì những tư tưởng tâm lý-xã hộicũng đã xuất hiện, chẳng hạn như trường hợp của Liliang Gilbreth, nhưng những tư tưởng này chưa gây được sự chú ý của các nhà khoa học, và nhanh chóng bị lãng quên. Mãi cho đến khi các giáo sư của trường kinh doanh Harvard (Mỹ) tham dự vào cuộc vận động nghiên cứu và nhất là cuộc nghiên cứu ở nhà máy Hawthornes năm 1924, được xem là dấu mốc khởi sự chính thức của các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý – xã hội, lúc này vấn đề tâm lý – xã hội trong quản trị mới được chính thức thừa nhận ở Mỹ, và từ đó lan truyền ra các nước phương Tây.
Nếu trường phái Cổ điển quan tâm đến yếu tố vật chất của con người, nặng về tổ chức, kiểm tra kiểm soát và khuyến khích bằng lợi ích vật chất thì trường phái Tâm lý- xã hội hay còn gọi là trường phái Tác phong họ quan tâm đến yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người trong công việc. Các lý thuyết của trường phái này cho rằng, hiệu quả cũng do năng suất lao động quyết định, nhưng năng suất lao động không phải do các yếu tố vật chất quyết định, mà do sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý-xã hộicủa con người. Các tác giả được xem là có đóng góp đáng kể cho trường phái Tác phong đó là:
1- Hugo Munsterberg.
Nhiều nhà khoa học xem Hugo Munsterberg là người đã lập ra một ngành học mới là ngành tâm lý học công nghiệp. Trong tác phẩm nhan đề “Tâm lý học và hiệu quả trong công nghiệp”xuất bản năm 1913, Ông đã đặt vấn đề phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của con người để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt.
Cũng giống như các tác giả của Lý thuyết quản trị khoa học, năng suất lao động là con đường đi đến hiệu quả, nhưng năng suất lao động không do các yếu tố vật chất mà do các yếu tố phi vật chất quyết định, Munsterberg cho rằng năng suất lao động sẽ cao hơn nếu công việc giao phó cho họ được nghiên cứu, phân tích chu đáo và hợp kỹ năng cũng như hợp với đặc điểm tâm lý của họ.
Từ lập luận đó, Munsterberg đã đề nghị các nhà quản trị dùng các bài trắc nghiệm tâm lyđể tuyển chọn nhân viên, và phải tìm hiểu tác phong con người trước khi đi tìm các kỹ thuật thích hợp để động viên họ làm việc. Những ý kiến ấy, lúc đầu không được các nhà khoa học và các nhà thực hành quản trị chú ý, nhưng càng về sau, khi mà đời sống vật chất con người ngày càng được cải thiện thì ý kiến đó lại càng có nhiều ý nghĩa to lớn cho quản trị.
2- Mary Parker Follet.
Nếu Hugo Munsterberg được xem là người có tư tưởng tâm lý (tâm lý trong quản lý) đầu tiên thì Mary Parker Follet là người có tư tưởng xã hội (xã hội trong quản lý) sớm nhất. Bà cho rằng, ngoài khía cạnh kinh tế và kỹ thuật, các doanh nghiệp còn được xem là một hệ thống của những quan hệ xã hội, và hoạt động quản trị là một tiến trình mang tính chất quan hệ xã hội.
Những ý kiến của Bà nhấn mạnh: ve sự chấp nhận quyền hành; sự quan trọng của phối hợp; sự hội nhập của các thành viên trong tổ chức là những giả thuyết khoa học hướng dẫn cho những người sau này nghiên cứu. Những ý tưởng đó được người Nhật tin tưởng áp dụng, đem lại những thành quả nhất định.
3- Elton Mayo và cuộc nghiên cứu nhà máy Hawthornes.
Những ý kiến của Hugo Munsterberg và Mary Parker Follet trước đây cũng chỉ làm cho các nhà khoa học để ý hơn trước về khía cạnh tâm lý-xã hội trong quản trị. Và, chỉ khi có cuộc nghiên cứu ở nhà máy Hawthornes thuộc Công ty điện lực miền Tây (Western Electric Company) ở gần Chicago (Mỹ) năm 1924 thành công thì các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tâm lý xã hội mới thực sự được các nhà khoa học thừa nhận, đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển của lý thuyết quản trị.
Chủ đích cuộc nghiên cứu nhằm tìm xem các yếu tố vật chất (tiếng ồn, ánh sáng, độ nóng, …) có ảnh hưởng đến năng suất lao động không? Thế là hai nhóm nữ công nhân đã được tổ chức đưa vào cuộc nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã nâng dần tình trạng tốt đẹp của các yếu tố vật chất và đo lường năng suất. Kết quả cho thấy khi các điều kiện vật chất được cải thiện, năng suất lao động đã nâng cao hơn. Tuy nhiên, khi làm cuộc thí nghiệm ngược lại, các nhà nghiên cứu thấy rằng năng suất của các nữ công nhân này vẫn tiếp tục gia tăng dù các điều kiện vật chất đã bị hạ xuống như lúc ban đầu.
Elton Mayo (1880 – 1949) một giáo sư về tâm lý học của trường kinh doanh Harvard đã được tham gia vào cuộc nghiên cứu để giải thích hiện tượng được xem là nghịch lý này. Liên tục trong 5 năm, từ 1927 đến 1932 Mayo đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau và đã ghi nhận được nhiều khám phá quan trọng. Trong cuộc nghiên cứu đầu tiên, Mayo thấy ánh sáng nơi làm việc không gây ảnh hưởng đến năng suất của công nhân. Cuộc nghiên cứu thứ hai, Mayo lại thấy các điều kiện làm việc không có hoặc có ít quan hệ với năng suất. Cuộc nghiên cứu thứ 3, Mayo thấy tiền lương và tiền thưởng không tạo ra tác động nào đến năng suất lao động của tập thể. Trái lại những yếu tố có quan hệ đến năng suất lao động lại là những yếu tố phi vật chất.
Từ kết quả nghiên cứu đó, Mayo kết luận rằng giữa tâm lý và tác phong có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau; và hơn nữa khi con người làm việc chung trong tập thể, thì ảnh hưởng của tập thể lại đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra tác phong của cá nhân. Với tư cách con người trong tập thể, công nhân có xu hướng tuân theo các qui định của tập thể, dù chỉ là những qui định không chính thức, hơn là những kích thích từ bên ngoài. Những khám phá này cũng đưa đến nhận thức mới về con người trong quản trị.
Mặc dù bị nhiều chỉ trích về tính khoa học của các phương pháp nghiên cứu được áp dụng, nhưng công trình của Mayo tại nhà máy Hawthornes đã mở ra một kỷ nguyên mới trong quản trị học, và từ đấy phát triển thành “Phong trào quan hệ con người” đối địch lại với “Phong trào khoa học”. Với sự nhấn mạnh đến mối quan hệ con người trong quản trị, các nhà quản trị phải tìm cách gia tăng thỏa mãn tâm lý và tinh thần của nhân viên.
4- Donglas Mc. Gregor (1909 – 1964).
Phát triển các kết quả nghiên cứu của Mayo, Mc. Gregor đã cho rằng các nhà quản trị trước đây đã tiến hành các cách thức quản trị trên những giả thuyết sai lầm về tác phong con người. Những giả thuyết đó cho rằng, phần đông mọi người không thích làm việc, thích được chỉ huy hơn là tự mình phải gánh vác trách nhiệm, và hầu hết mọi người đều chỉ làm tốt công việc vì quyền lợi vật chất. Chính vì những giả thuyết sai lầm đó mà các nhà quản trị đã xây dựng bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung, đặt ra nhiều nguyên tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra và giám sát chặt chẽ. Mc. Gregor đã đặt tên cho những giả thuyết này là thuyết X.
Và, ông đề nghị một loạt giả thuyết khác, gọi là thuyết Y, sau này trở thành lý thuyết của Ông. Ngược lại với thuyết X, thuyết Y cho rằng công nhân sẽ thích thú với công việc nếu có được những điều kiện thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều hơn cho tổ chức. Từ đó, Mc. Gregor đề nghị các nhà quản trị nên quan tâm đến sự phối hợp hoạt động hơn là chú trọng đến các cơ chế kiểm tra không cần thiết trong tổ chức.
Thuyết Y của Mc. Gregor làm phong phú thêm cho lý thuyết quản trị. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, mà sau này tác giả lý thuyết Z, Willam Ouchi đã kịch liệt phê phán.
5- Chris Argyris (1923).
Đồng quan điểm với Mc. Gregor, Chris Argyris đã đưa ra những ý kiến bác bỏ các ý kiến về sự động viên và sự thỏa mãn của công nhân của các lý thuyết Cổ điển. Ông cho rằng, sự nhấn mạnh thái quá việc kiểm soát đối với nhân viên của các nhà quản trị sẽ đưa nhân viên đến thái độ thụ động, lệ thuộc, né tránh trách nhiệm. Trong trạng thái tâm lý bị ức chế, họ sẽ cảm thấy bất bình với nơi làm việc, sẽ có những tác phong tiêu cực đối với việc hoàn thành mục tiêu chung.
Chris Argyris cho rằng, bản chất con người luôn luôn muốn là người trưởng thành, muốn độc lập, sự phong phú trong hành động, sự đa dạng trong các mối quan hệ, và khả năng tự làm chủ.
Từ những phân tích trên, Ông đề nghị các nhà quản trị phải tạo điều kiện cho nhân viên tự thể hiện, xứng đáng như những người trưởng thành, và điều đó sẽ có lợi cho tổ chức.
6- Tóm tắt các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tâm lý xã hội.
a- Tóm tắt.
Đồng quan điểm với trường phái Cổ điển, hiệu quả do năng suất lao động quyết định. Nhưng năng suất lao động lại do các yếu tố phi vật chất quyết định.
Các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội đã khắc phục được “con người thuần lý – kinh tế” của các lý thuyết thuộc trường phái Cổ điển. Họ xem con người với tư cách là những cá nhân có những mối quan hệ mật thiết trong một tổ chức. Sự tương tác giữa các cá nhân và tập thể trong mối quan hệ thân thiện, hợp tác sẽ làm tăng năng suất lao động. Hay nói cách khác, năng suất lao động tùy thuộc nhiều vào các yếu tố tâm lý-xã hội. Quan điểm này được thể hiện ở các nội dung sau:
– Các đơn vị kinh doanh là một hệ thống xã hội, bên cạnh tính kinh tế và kỹ thuật đã được nhận thấy, sự thỏa mãn về tinh thần có mối quan hệ chặt chẽ tới năng suất và kết quả lao động. Vì vậy, con người không chỉ có thể động viên bằng các yếu tố vật chất, mà còn các yếu tố tâm lý-xã hội như: tiến hành trắc nghiệm tâm lý khi tuyển dụng, khích lệ họ bằng cách thừa nhận các thành quả mà họ làm được, nhận biết các nhu cầu để thỏa mãn, xây dựng môi trường sống và hoạt động lành mạnh, mọi người yêu thương gắn bó, hợp tác nhau để hoàn thành công việc…
– Các nhóm và tổ chức phi chính thức trong một tổ chức có tác động nhiều đến tinh thần, thái độ và kết quả lao động của công nhân.
– Sự lãnh đạo của các nhà quản trị không chỉ đơn thuần dựa vào chức danh chính thức trong bộ máy tổ chức, mà còn phải biết dựa nhiều vào các yếu tố tâm lý – xã hội. Điều đó đòi hỏi ở tài năng của mỗi nhà quản trị, đặc biệt là kỹ năng quan hệ với con người.
b- Các đóng góp.
Với những luận điểm trên, các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội đã đóng góp to lớn vào sự nghiên cứu và thực hành quản trị:
– Nhận rõ sự ảnh hưởng của tác phong lãnh đạo của nhà quản trị.
– Vai trò của các tổ chức không chính thức đối với thái độ lao động và năng suất lao động.
– Sự ảnh hưởng của tập thể đối với thái độ cá nhân.
– Mối quan hệ giữa các đồng nghiệp, mối quan hệ nhân sự trong công việc.
– Giúp cho các nhà quản trị hiểu rõ hơn về sự động viên con người, quan tâm hơn đối với nhân viên, đối với việc sử dụng quyền hành và thông đạt trong tổ chức …
Nói về “chiến lược mới về tăng năng suất lao động” của Singapore cho 10 năm 2000 – 2010, tác giả Nguyễn văn Đường (theo The Straits Times), trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 14/03/2000 viết:
Chính phủ Singapore vừa soạn thảo một kế hoạch mới về tăng năng suất lao động cho 10 năm sắp tới, làm thay đổi thái độ làm việc của họ và xem nó như một phần của chiến lược vươn tới tương lai nhằm biến Singapore thành một trong mười quốc gia có năng suất đứng đầu thế giới về sản xuất và dịch vụ vào năm 2010.
Năm 1999, trong quyển niên giám cạnh tranh của thế giới (The World Competiveness Yearbook), năng suất dịch vụ Của Singapore được xếp hàng thứ 19 và năng suất công nghiệp đứng hàng thứ 20.
Theo kế hoạch cuộc đổi mới tăng năng suất này, công nhân Singapore sẽ được hướng dẫn cách tư duy để trở thành người lao động có đầu óc sáng tạo, thường xuyên tìm kiếm giải pháp thông minh để hoàn thành công việc của mình chứ không phải chỉ giải quyết những công việc đơn thuần trong công sở. Anh ta sẽ được khuyến khích sự sáng tạo của mình bằng cách cộng thêm giá trị cải tiến đó vào chức danh nghề nghiệp của mình, vì thế anh ta được đánh giá tay nghề cao hơn những người khác.
Người quản lý sẽ không đơn thuần chỉ đưa ra lời hướng dẫn mà phải cùng làm việc với cộng sự để cắt giảm chi phí và tăng năng suất. Ông ta sẽ vận dụng tính năng động của mình để tìm kiếm thị trường mới và đầu tư cho tương lai.
Ủy Ban Chất lượng và năng suất Singapore (SPSB) cho rằng: để làm được điều này chỉ một cuộc cách mạng làm thay đổi quan điểm trong nếp nghĩ của mọi người đối với công việc và năng suất.
Ví dụ, trong quá khứ, người ta đánh giá hiệu quả bằng việc sản xuất ra nhiều hàng hóa hoặc tạo ra các mặt hàng tốt hơn với cùng một lượng đầu vào (sức lao động và thiết bị máy móc). Ngày nay, nó được đánh giá sự cải tiến và sáng tạo các loại sản phẩm mới. Đây cũng là tiêu chuẩn giúp cho công ty Creative Technology, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cải tiến các sản phẩm máy tính trở thành một công ty nổi tiếng có kỹ thuật cao.
Trong cuộc họp báo ngày 6/12/1999, ông Lee Suan Hiang, giám đốc hành chánh quản trị của SPSB phát biểu rằng: “Kế hoạch này nhằm hướng cho công nhân chú trọng vào sự cải tiến bằng giá trị sáng tạo hơn là chỉ đơn thuần cải tiến chất lượng và giải quyết khó khăn”.
Một chương trình giáo dục quốc gia được triển khai nhằm làm thay đổi cách tư duy. Các chi tiết môn học sẽ được giới thiệu sau này.
Từ năm 1982, vòng hoán đổi chất lượng được quảng cáo như một phần của cuộc vận động về tăng năng suất. Từ việc giải quyết khó khăn để cải tiến thặng dư được chuyển sang những ý tưởng khám phá quan trọng hơn.
Việc khuyến khích đào tạo sẽ được phổ biến rộng rãi và không bó hẹp trong việc học hỏi những kỹ năng căn bản đơn thuần và chỉ tập trung vào những công ty nhỏ cá thể. Thay vào đó, Chính phủ sẽ hỗ trợ tài chính nhằm khuyến khích người lao động học tập những kỹ năng tiên tiến cao hơn. Họ sẽ thành lập nguồn quỹ mới để giúp cho các công ty, các doanh nghiệp bắt tay vào việc cải tiến năng suất công nghiệp ở diện rộng một cách đại trà.
Cách đây 18 năm, từ lúc phong trào nâng cao năng suất quốc gia ra đời, những thành tựu năng suất đã đóng góp hơn phân nửa trong số 7,2% mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Singapore…”.
Như vậy, rõ ràng các lý thuyết về Tác phong con người, không những có ý nghĩa nhiều mặt về: nhận thức, lý luận mà nó còn được vận dụng khá phổ biến không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai xa. Tuy nhiên, cũng như các lý thuyết khác, các lý thuyết quản trị thuộc trường phái Tác phong cũng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
c- Những hạn chế.
Hiện cũng có nhiều ý kiến chỉ trích các lý thuyết thuộc trường phái Tâm lý xã hội:
– Quá chú ý đến yếu tố xã hội của con người khiến trở thành thiên lệch. Khái niệm “con người xã hội” chỉ có thể bổ sung cho khái niệm “con người thuần lý – kinh tế” chứ không thể thay thế. Không phải bất cứ lúc nào, đối với bất cứ con người nào khi được thỏa mãn đều cho năng suất lao động cao. Bằng chứng, trong thập niên 50 ở Mỹ và nhiều nước châu Âu, nhiều nỗ lực nhằm cải thiện điều kiện làm việc và gia tăng sự thỏa mãn tinh thần của công nhân đã không đem lại sự gia tăng năng suất như mong đợi. Và, nó chỉ là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng suất. Các yếu tố khác như: lương bổng, quyền lợi vật chất, cơ cấu tổ chức, sự rõ ràng trong công việc, sự kiểm tra giám sát … cũng có vai trò to lớn đối với năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
– Ở một khía cạnh khác, một lần nữa Trường phái Tâm lý xã hội cũng giẫm đạp lên con đường mòn của trường phái Cổ điển, xem con người trong tổ chức với tư cách là phần tử của hệ thống (xí nghiệp, công ty) khép kín (closed system). Bỏ qua mọi sự tác động các yếu tố bên ngoài như: chính trị, kinh tế, xã hội, … Với hệ thống mở, quan hệ con người trong tổ chức không còn hoàn toàn phụ thuộc vào tương quan nội bộ giữa các thành phần trong tổ chức, mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố bên ngoài, các yếu tố này thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của nhà quản trị. Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố bên ngoài tổ chức là thách thức to lớn đối với mọi doanh nghiệp, nhất là những nước đang phát triển như ở nước ta hiện nay.
|