Dịch Vụ Sửa Chữa 24h Tại Hà Nội

NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG TRONG LÝ THUYẾT QUẢN TRỊ KHOA HỌC

Đóng góp của trường phái quản trị khoa học

Trường phái quản trị khoa học có nhiều góp phần có giá trị cho sự tăng trưởng của tư tưởng quản trị :

  • Tạo ra sự quan tâm đối với quản trị doanh nghiệp vào đầu thế kỷ 20
  • Họ phát triển kỹ năng quản trị qua phân công và chuyên môn hóa quá trình lao động, hình thành qui trình sản xuất dây chuyền.
  • Họ là những người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn luyện nhân viên, đầu tiên dùng đãi ngộ để tăng năng suất lao động.
  • Họ cũng là những người nhấn mạnh việc giảm giá thành để tăng hiệu quả, dùng những phương pháp có tính hệ thống và hợp lý để giải quyết các vấn đề quản trị.
  • Cũng chính họ coi quản trị như là một đối tượng nghiên cứu khoa học.

Hạn chế của lý thuyết quản trị khoa học:

  • Chỉ áp dụng tốt trong trường hợp môi trường ổn định, khó áp dụng trong môi trường phức tạp nhiều thay đổi;
  • Quá đề cao bản chất kinh tế và duy lý của con người mà đánh giá thấp nhu cầu xã hội và tự thể hiện của con người, do vậy vấn đề nhân bản ít được quan tâm;
  • Xuất phát là những người có kinh nghiệm làm việc thực tế nên chỉ tập trung vào gia tăng năng suất chứ chưa phát triển cao về mặt lý luận khoa học.

Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915)

Taylor, người tiên phong của lý thuyết quản trị khoa học

Giới thiệu về Winslow Taylor

Frederick Winslow Taylor là một kỹ sư cơ khí. Ông đã tìm ra cách nâng cao hiệu suất công nghiệp và là một nhà tư vấn quản trị trong những năm cuối đời. Ông được người ta gọi là “ cha đẻ của triết lý quản trị khoa học. ”
Taylor sinh ra trong một mái ấm gia đình phong phú ở Germantown Quaker, Philadelphia, Pennsylvania. Ông của Taylor, Samuel Taylor, định cư tại Burlington, New Jersey vào năm 1677. Cha của Taylor, Franklin Taylor, một luật sư Princeton trở nên phong phú nhờ thế chấp ngân hàng. Mẹ của Taylor, Emily Annette Taylor là người chống chủ nghĩa nô lệ. Thời thơ ấu, ông hấp thu nền tảng giáo dục từ mẹ. Taylor học hai năm ở Pháp, Đức và đi du lịch châu Âu trong 18 tháng. Năm 1872, ông tham gia vào TT Phillips Exeter Academy ở Exeter, New Hampshire. Sau khi tốt nghiệp, Taylor được đồng ý học tại trường ĐH Luật Harvard. Tuy nhiên, do thị lực suy giảm nhanh gọn, Taylor buộc phải xem xét một nghề nghiệp khác. Sau khoảng chừng thời hạn chán nản, năm 1873, Taylor mở màn học việc làm quy mô công nghiệp, tích góp kinh nghiệm tay nghề tại một công ty sản xuất máy bơm – doanh nghiệp khu công trình thủy lực – ở Philadelphia. Sự nghiệp của Taylor tiến triển vào năm 1878 khi ông trở thành một người lao động ở shop máy tại Midvale Steel Works. Tại Midvale, Taylor được cử làm Quản đốc, Giám đốc điều tra và nghiên cứu và sau cuối là Kỹ sư trưởng. Taylor trở thành sinh viên của Học viện Công nghệ Stevens và nhận được bằng kỹ sư cơ khí vào 1883. Ngày 03/5/1884, ông kết hôn với Louise M. Spooner. Từ 1890 đến 1893, Taylor thao tác với tư cách nhà quản trị và kỹ sư tư vấn quản trị cho Công ty sản xuất góp vốn đầu tư tại Philadelphia, một công ty quản lý và vận hành nhà máy sản xuất giấy lớn ở Maine và Wisconsin. Năm 1893, Taylor đã mở TT tư vấn độc lập tại Philadelphia, thẻ kinh doanh thương mại của ông tên “ Hệ thống hóa đặc biệt quan trọng quản trị shop và chi phí sản xuất ”. Năm 1898, Taylor tham gia Bethlehem Steel với một nhóm trợ lý tăng trưởng hiệu suất công nghiệp thép. Ông nhận được huy chương vàng tại triển lãm Paris năm 1900 cho dự án Bất Động Sản nâng cao hiệu suất giải quyết và xử lý thép và được trao huy chương Elliott Cresson cùng năm do Viện Franklin, Philadelphia. Taylor buộc rời khỏi Bethlehem Steel vào năm 1901 do trái chiều với những người quản trị khác. Ngày 19/10/1906, Taylor đã được trao bằng danh dự Giáo sư Khoa học của Đại học Pennsylvania. Cuối cùng trở thành Giáo sư tại Trường cao đẳng kinh doanh thương mại Tuck ở Dartmouth. Cuối Mùa đông năm 1915, Taylor bị viêm phổi đã qua đời vào sau một ngày sinh nhật 59. Ông được chôn cất ở Tây Laurel Hill Cemetery, Bala Cynwyd, Pennsylvania .

  • Với 03 tác phẩm: The best way, Shop Management và The principles of scientific management đã hình thành lý thuyết quản trị khoa học.
  • Ông nêu ra hai nguyên nhân tạo ra năng suất lao động thấp là:
    • Công nhân không biết phương pháp làm việc.
    • Công nhân làm việc thiếu hăng hái và nhiệt tình.
  • Ông đưa ra định nghĩa: “Quản trị là biết được chính xác điều nhà quản trị muốn người khác làm và sau đó được hiểu rằng họ đã hoàn thành công việc đó một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
  • Ông đưa ra các nguyên tắc quản trị như sau:
    • Nhà quản trị nên dành thời gian và công sức để lập kế hoạch hoạt động, tổ chức cho công nhân làm việc và kiểm tra họ. Nhà quản trị không tham gia các công việc cụ thể như công nhân.
    • Nhà quản trị nên suy nghĩ cách thức hoạt động ít tốn thời gian, công sức để dạy cho công nhân.
    • Nhà quản trị nên sử dụng các biện pháp kinh tế để kích thích công nhân hăng hái làm việc.

Henry L. Gantt (1861 – 1919)

We cannot drive people; we must direct their development. The general policy of the past has been to drive; but the era of force must give way to the era of knowledge, and the policy of the future will be to teach and lead, to the advantage of all concerned.

Những nét chính:

  • Gantt lập luận rằng hệ thống trả lương theo sản phẩm do Taylor đề xướng không kích thích công nhân.
  • Gantt đề xuất hệ thống tiền thưởng cho các công nhân vượt định mức hàng ngày (kể cả thưởng cho người quản trị trực tiếp).
  • Gantt là người đưa ra “Sơ đồ Gantt để quản lý sản xuất có hiệu quả” thông qua phân tích công việc, phân tích thời gian của từng bước công việc. Đây là một công cụ quản lý đến nay vẫn còn áp dụng rộng rãi tại nhiều tổ chức.

Quan điểm của Gantt

Henry L.Gantt là cộng sự với Taylor ở nhà máy Midvale. Ông có cùng quan điểm với Taylor. Tuy nhiên, ông chú ý đến người thực hiện công việc hơn là bản thân công việc. Henry L. Gantt cũng là thành viên ASME (American Society of Mechanical Engineers-ASME). Ông quan tâm đến lựa chọn và quá trình huấn luyện công nhân. Với hệ thống trả lương có thưởng, kể cả người quản trị, Gantt tập trung vào tinh thần dân chủ trong công nghiệp và luôn cố gắng để quản trị theo khoa học mang tính nhân đạo hơn. Ngoài ra, đóng góp quan trọng nhất của ông cho khoa học quản trị là sơ đồ hình Gantt (CPM -Critical Path Method). Đây là sơ đồ mô tả dòng công việc, cần để hoàn thành một nhiệm vụ, vạch ra những giai đoạn của công việc theo kế hoạch, ghi cả thời gian hoạch định và thời gian thực sự. Ngày nay, biểu đồ Gantt cùng với thống kê giúp dự báo chính xác hơn. Bên cạnh đó, các loại biểu đồ khác cũng được phát triển ngoài sự mong đợi ban đầu trong điều độ sản xuất là kỹ thuật duyệt và đánh giá chương trình (Program Evaluation and Review Technique-PERT) và phương pháp ánh xạ đường  găng (Critical Path Mapping-CPM).

Ông Bà Bunker Gilbreth:

Vợ chồng nhà khoa học quản trị Gilbreth

  • Ông bà nghiên cứu giảm các động tác thừa mà không cần phải đốc thúc.
  • Giảm các động tác thừa có quan hệ đến sự mệt mỏi của công nhân.
  • Do tập trung nghiên cứu đầu tiên về khía cạnh tâm lý trong quản trị nên tư tưởng trên chưa được ủng hộ tại Hoa Kỳ nhất là vào thời điểm phân biệt chủng tộc đang diễn ra gay gắt.

Frank Bunker (1868 – 1924) là một nhà thầu xây dựng. Ông là thành viên của ASME, Hiệp hội Taylor (tiền thân của SAM) và là giảng viên tại Đại học Purdue. Liliant M.Gibreth (1878 – 1972) là một nhà tâm lý học, giảng viên tại Đại học Purdue.

Công trình nghiên cứu

Hai tác giả này đã nghiên cứu rất chi tiết quá trình quan hệ giữa các thao tác, động tác, cử động với một mức độ căng thẳng và mệt mỏi nhất định của công nhân trong khi làm việc. Từ đó đưa ra phương pháp thực hành tối ưu nhằm tăng năng suất lao động, giảm sự mệt mỏi của công nhân. Frank Bunker là người mở đường đơn giản hóa công việc bằng sự phân chia công việc thành 17 loại thao tác khác nhau. Chẳng hạn, khi nghiên cứu thao tác của người thợ xây, ông đề nghị họ thay đổi cấu trúc công việc và đã giảm các thao tác xây gạch từ 18 xuống 05. Do đó, năng suất xây từ 120 viên gạch/giờ tăng lên 300 viên gạch/giờ và làm giảm sự mỏi mệt của công nhân. Bởi vậy, năng suất chung của toán công nhân đã tăng 20%. Frank đã đề xuất được ý tưởng tìm một phương pháp tốt nhất để thực hiện mọi công việc. Sau khi Frank chết, bà Lilian đã tiếp tục công việc và tập trung hơn vào khía cạnh con người. Bà đưa ra ý tưởng công nhân cần được làm việc trong những điều kiện đảm bảo an toàn, có số ngày làm việc tiêu chuẩn, được nghỉ giải lao giữa giờ và được nghỉ trưa vào giờ quy định.

Charler Babbage (1792 -1871):

GS Babbage tiên phong trong việc ứng dụng phân tích và công nghệ vào nâng cao hiệu quả quản trị
Là một giáo sư toán học người Anh, Babbage dành nhiều thời hạn điều tra và nghiên cứu phương pháp để những nhà máy sản xuất hoạt động giải trí hiệu suất cao hơn. Ông vận dụng những nguyên tắc khoa học vào quy trình thao tác vừa nâng cao hiệu suất lao động vừa hạ thấp ngân sách. Ông ủng hộ nguyên tắc phân loại lao động :

  • Mỗi hoạt động cần được phân tích sao cho các kỹ năng khác nhau cần được tách biệt.
  • Mỗi công nhân sẽ được đào tạo về một kỹ năng đặc thù và chỉ chịu trách nhiệm về phần việc đó.

Theo phương pháp này, thời hạn đào tạo và giảng dạy giảm xuống, sự tái diễn những thao tác giúp cho công nhân nâng cao được kỹ năng và kiến thức .