Đặc tính sản phẩm – Features
· Kích thước nhỏ gọn, thích hợp cho gia đình và nhà hàng
Can be used even in narrow construction space, especially for restaurant
· Thiết kê hiện đại, dễ vận hành
Bạn đang đọc: Máy phở tươi mini 30kg/h cho nhà hàng
Modernized design, operator friendly
· Có thể điều chỉnh tốc độ tráng dễ dàng chỉ với 1 núm xoay
Variable speed by inverter
· Tự động ngưng máy khi hết nước -> chống cháy điện trở nhiệt và đảm bảo an toàn điện
Build-in Heat resistor protection funtion
· Toàn bộ chi tiết được làm bằng thép không gỉ SUS304 và các vật liệu không gỉ sét
Whole parts are made from Stainless material with bearing included
· Dễ vệ sinh theo tiêu chuẩn GMP, HACCP, NFS
Easily clean in place ( CIP )
· Có máng hứng để khi vệ sinh nước không văng ra sàn nhà
· Di chuyển dễ dàng với bánh xe đẩy
Portable with build-in castors
Thông số kỹ thuật – Specifications:
— — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — —— — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — — —
Nguồn điện Power supply Điện gia đình 220V
Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc của phở vào ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết về vấn đề này và nhận ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống nhất quan điểm về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa đàm”này, hy vọng rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều…
Xem thêm: Sửa Lò Vi Sóng Electrolux Huyện Gia lâm
Phở ra đời từ năm nào?
Có thể chứng minh và khẳng định rằng tính đến năm 1838, từ “ phở ” chưa Open trong từ điển, do tại trong năm này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của AJ.L Taberd ( còn gọi là Từ điển Taberd ) được xuất bản lần đầu, nhưng trong đó không có từ “ phở ”. Theo nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở Open trong từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của ( 1896 ) với nghĩa là “ nổi tiếng tăm ” ( trang 200 ). Năm 1898, phở xuất hiện trong Dictionnaire Annamite-Français của J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ ồn ào ” ( trang 614 ). Trong bài Essai sur les Tonkinois ( Khảo luận về người Bắc Kỳ ) đăng trên Revue Indochinoise ( Tạp chí Đông Dương ) ngày 15-9-1907, Georges Dumonutier đã ra mắt nhiều thức ăn uống thông dụng ở miền Bắc vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm 1931, từ phở có nghĩa là một món ăn mới khởi đầu Open, tối thiểu là trong quyển Nước Ta Tự Điển của Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức ( NXB Mặc Lâm ) : phở “ do chữ phấn mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò : Phở xào, phở tái ” ( trang 443 ) ( 1 ). Một khi từ phở đã Open trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ cập. Thật vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về TP.HN, nhà văn Nguyễn Công Hoan viết : “ 1913 … trọ số 8 hàng Hài … đôi lúc, tối được ăn phở ( hàng phở rong ). Mỗi bát 2 xu ( có bát 3 xu, 5 xu ) ” ( 2 ). Từ yếu tố này ta hoàn toàn có thể chứng minh và khẳng định phở đã sinh ra từ đầu thế kỷ 20 .
Nguồn gốc của phở
Hiện nay, có ba quan điểm chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó là : phở xuất phát từ món pot-au-feu của Pháp, từ món ngưu nhục phấn của Trung Quốc và ở đầu cuối là món xáo trâu của Nước Ta. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu thêm từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu .
Gốc Pháp
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là cách nói tắt của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu). Quan điểm này được củng cố bằng quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue (1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
Món pot-au-feu (ảnh: Wikipedia)
Chúng tôi thật sự không hiểu : pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước hoàn toàn có thể làm súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại hoàn toàn có thể ghép món này với cháo phở của Nước Ta, mặc dầu trong tiến trình ấy, do tác động ảnh hưởng người Pháp, người Việt đã mở màn làm quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu món cháo thịt bò. Trên thực tiễn, xét về nguyên vật liệu, cách chế biến và cả cách ăn thì phở và pot-au-feu là hai món trọn vẹn khác nhau ,. Theo Wikipedia, pot-au-feu là món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây, cần tây, hành tây ; tích hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương … Thịt bò sử dụng cho món này thường dầy và to ( chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ chân … ), trong khi đó thịt bò trong phở lại mỏng mảnh và nhỏ ; mặt khác, những thứ như cà rốt, củ cải, tỏi tây … không phải là nguyên vật liệu để làm phở, mùi vị pot-au-feu cũng không giống như phở. Người Pháp ăn món này với bánh mì, khoai tây, dùng muối thô, mù tạt Dijon, đôi lúc cũng ăn với dưa chuột ri ngâm giấm chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm đáng tiếc khi cho rằng phở có nguồn gốc từ món pot-au-feu .
Gốc Trung Quốc
Đây là giả thuyết mà nhiều người đồng ý chấp thuận nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc từ món Ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món làm từ bún và thịt bò ( ngưu牛 : bò ; nhục 肉 : thịt và phấn 粉 : bún, bột gạo dạng sợi ). Món này đọc theo tiếng Quảng Đông là Ngầu – yụk – phẳn. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán món Ngưu nhục phấn tại TP. Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ ngầu .. yụk .. phẳn .. a ” rồi từ từ hô tắt còn “ yụk … phẳn … a ” rồi “ phẳn … a ” và sau cuối hô trại thành “ phở ”. Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Nước Ta Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức ( đã nêu trên ) : phở “ do chữ phấn mà ra ” .
Củng cố thêm là định nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue (1937), trong đó có đoạn: “Abréviation de “lục phở: phở xào: beignet farci et sauté” nghĩa là “viết tắt của từ “lục phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và được chiên”. Nhiều người thắc mắc, không biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng tôi đây là từ có thật. Tương truyền rằng ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn môn, Yên phong, Bắc Ninh) có sáng tác một bài thơ nói về chợ Đồng Xuân, để các cô đi chợ ngâm nga giải trí trên đường đi, trong đó có câu liên quan tới “lục phở”, xin trích đoạn sau:
—-
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau lưng hàng giò
……
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết về từ “lục phở”: “abréviation de “lục phở”: bouilli – cháo – pot au feu”…, “Lục phở: prononciation cantonaise des caractères chinois: (ngưu) nhục phấn” bouilli de boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của ” lục phở”, còn “lục phở” là từ phát âm của “(ngưu) nhục phấn” trong tiếng Trung Hoa.
Đến năm 1970, Nhà sách Khai Trí ( Sài-gòn ) xuất bản quyển Nước Ta Tự-điển, do Lê Ngọc Trụ hiệu đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chãi hơn, trong đó định nghĩa “ phở ” như sau : “ Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng mảnh hấp chín xắt thành sợi nấu với thịt bò ( do tiếng Tàu “ Ngầu-dục-phảnh ” tức “ Ngưu-nhục-phấn ” mà ra : Ăn phở, bán phở ”, trang 1169, tập 2 ) .
Thật ra, những quan điểm trên chỉ cho thấy chữ “ phở ” có nguồn gốc từ tên Ngưu nhục phấn, nhưng đáng tiếc là nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn, hoặc “ cải cách ” từ món Ngưu nhục phấn, chế biến cho hợp với khẩu vị của người Việt. Một số người lại dựa theo bài “ Phở, phởn, phịa … ” của Nguyễn Dư, dẫn chứng quyển Technique du peuple annamite ( Kỹ thuật của người An Nam, 1908 – 1909 ) của Henri Oger ( 3 ) để củng cố quan điểm này. Họ trình làng hai bức tranh khắc, bức tiên phong ( mang số 26 trong tập tranh 4577 bức ) miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú thích “ Chinois vendeur ambulant à la tombée de la nuit ” ( Người Tàu bán hàng trong buổi tối – Trần Đình Bình dịch ). Nhưng họ không hề chứng minh và khẳng định người đàn ông ấy bán cái gì, chỉ bảo rằng gánh hàng trông giống như gánh phở ở Thành Phố Hà Nội rất lâu rồi ) ; bức còn lại là hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn 行肉粉, họ cho rằng giống như thùng của gánh hàng trong bức tiên phong. Thế là họ vội khẳng định chắc chắn dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉, và bán Ngưu nhục phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách khác, phở chính là Ngưu nhục phấn ( ! ). Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người bán hàng có tóc đuôi sam, vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉 ở Thành Phố Hà Nội chứ không phải người Nước Ta bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả gánh hàng Ngưu nhục phấn ra làm thế nào để so sánh với gánh phở. Có năng lực gánh “ nhục phấn ” giống gánh “ phở ” chăng ?
Theo chúng tôi, ngưu nhục phấn và phở là hai món ăn khác nhau. Từ điển bách khoa Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa phương, nguyên vật liệu và cách chế biến ngưu nhục phấn có đổi khác đôi chút, tuy nhiên nhìn chung, nguyên vật liệu gồm có : thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, hành, tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô, rau mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải … Trong khi đó, thành phần chính của phở gồm có sợi phở, nước dùng ( ninh từ xương ống lợn / bò và 1 số ít gia vị khác ), thịt bò bắp ( để làm thịt chín ), thịt thăn mềm ( để làm thịt tái ), con sá sùng, tôm nõn, hành khô, gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây, hành hoa, húng bạc hà, chanh, ớt, rau thơm …
Xét về nguyên vật liệu, ngưu nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, tinh dầu hạt cải … những thứ không dùng để chế biến phở ; ngược lại phở sử dụng con sá sùng ( hoàn toàn có thể thay bằng bột ngọt ), tôm nõn, dứa, chanh, ớt, rau thơm … những thứ không thấy khi làm món ngưu nhục phấn .
Cách chế biến hai món này cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không trình diễn ở đây, mời bạn đọc khám phá thêm từ những clip trình làng cách làm ngưu nhục phấn và phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây ( bên trái ) bạn sẽ thấy nước phở trong, bánh phở nhỏ ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn 牛肉粉, có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Nước Ta .
Gốc Việt Nam
Xem thêm: Sửa Lò Vi Sóng Electrolux Huyện Gia lâm
Trước hết, xin phép nhắc lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm mục đích chứng minh và khẳng định món phở là của Nước Ta. Song song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm từ từ trở thành văn tự chính của nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, chính quyền sở tại Pháp quyết định hành động giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho ( năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung Kỳ ). Họ dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm để làm văn tự chính thức ở nước ta từ năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời Open để tất cả chúng ta thấy rằng phở chẳng tương quan gì tới phấn 粉 trong Ngưu nhục phấn 牛肉粉. Nhìn chung, có một số ít cách cấu trúc chữ Nôm, ở đây chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để bạn đọc so sánh với từ phấn :
- Thứ nhất, cách vay mượn nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ Nôm có cách đọc và nghĩa khác với chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt) để tạo chữ Nôm biết 別(hiểu biết); mược chữ đế 帝 (vua chúa) để tạo ra chữ Nôm đấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
- Thứ hai, cách ghép hai chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là thành tố biểu ý, chữ thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt 月 (biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ Nôm tháng; mượn chữ thượng 上 (biểu ý) + thiên 天 (biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.
Vậy có bao nhiêu chữ Nôm đọc là phở?
Theo những tự điển mà chúng tôi đã tìm hiểu thêm, từ phở Open trong phở lở gồm có ba chữ (
Source: https://dichvusuachua24h.com
Category : Sửa Đồ Gia Dụng