Dịch Vụ Sửa Chữa 24h Tại Hà Nội

Paris – Wikipedia tiếng Việt

Paris ( phát âm tiếng Pháp : [ paʁi ] ( nghe ) ) là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong bachelor of arts thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn và new york và là một trung tâm hành chính của vùng Île-de-France với dân số ước tính là 2.165.423 người tính đến năm 2019, trên diện tích hơn 105,4 km2 ( 40,7 dặm vuông Anh ). [ four ] Kể từ thế kỷ seventeen, paris đã là một trong những trung tâm lớn về tài chính, ngoại giao, thương mại, thời trang, ẩm thực, khoa học và nghệ thuật của thế giới nói chung. Thành phố paris là trung tâm và là nơi đặt trụ sở chính quyền của vùng và tỉnh Île-de-France, hay Vùng paris, có dân số ước tính là 12.262.544 người, hay khoảng nineteen % dân số Pháp tính đến năm 2019. [ five ] Vùng paris có gross domestic product là 739 tỷ € ( 743 tỷ USD ) vào năm 2019, cao nhất ở Châu Âu. [ six ] Theo Khảo sát qi phí Sinh hoạt Toàn cầu của economist intelligence unit vào năm 2021, paris là thành phố đắt đỏ thứ hai trên thế giới, cùng với singapore xếp sau Tel Aviv và đứng trước Zürich, Hồng Kông, oslo và geneva. [ seven ] Một nguồn tin khác xếp paris là thành phố đắt đỏ nhất, ngang hàng với singapore và Hồng Kông, vào năm 2018. [ eight ] [ nine ] paris là một trung tâm vận tải đường sắt, đường cao tốc và đường hàng không được phục vụ bởi hai sân bay quốc tế chính : Paris–Charles delaware Gaulle ( sân alcove bận rộn thứ hai ở Châu Âu ) và Paris–Orly. [ ten ] [ eleven ] Khai trương vào năm 1900, hệ thống tàu điện ngầm của thành phố, Métro paris, phục vụ 5,23 triệu hành khách mỗi ngày ; [ twelve ] nó là hệ thống tàu điện ngầm bận rộn thứ hai ở châu Âu sau Tàu điện ngầm Moskva. Gare du Nord là nhà tabun bận rộn thứ twenty-four trên thế giới và là nhà georgia nhộn nhịp nhất bên ngoài lãnh thổ Nhật Bản, với 262 triệu hành khách vào năm 2015. [ thirteen ] paris đặc biệt nổi tiếng với các bảo tàng và địa danh kiến trúc : louver vẫn là bảo tàng được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới với 2,8 triệu lượt khách vào năm 2021, bất chấp việc đóng cửa do virus COVID-19 gây radium. [ fourteen ] Bảo tàng Orsay, bảo tàng Marmottan monet và bảo tàng Orangerie gây chú ý nhờ các bộ sưu tập tranh nghệ thuật Ấn tượng Pháp. Bảo tàng Quốc armed islamic group Nghệ thuật Hiện đại của Trung tâm Pompidou có bộ sưu tập tranh nghệ thuật đương đại và hiện đại lớn nhất ở châu Âu. Bảo tàng rodin và bảo tàng picasso trưng bày các tác phẩm của hai danh họa. Quận lịch sử dọc theo sông seine ở trung tâm thành phố đã được united nations educational scientific and cultural organization công nhận là Di sản thế giới từ năm 1991 ; các địa danh nổi tiếng tại đây bao gồm Nhà thờ Đức Bà paris ở Île delaware la Cité, hiện đã đóng cửa để tu sửa sau trận hỏa hoạn ngày fifteen tháng four năm 2019. Những địa điểm du lịch nổi tiếng khác bao gồm nhà nguyện hoàng armed islamic group theo kiểu kiến trúc gothic Sainte-Chapelle, cũng nằm trên Île delaware la Cité ; Tháp eiffel, được xây dựng nhằm chuẩn bị cho Triển lãm Quốc tế paris 1889 ; august Palais và Petit Palais, được xây dựng nhằm chuẩn bị cho Triển lãm Quốc tế paris 1900 ; Khải Hoàn Môn nằm trên đại lộ Champs-Élysées, đồi montmartre và Vương cung thánh đường Sacré-Cœur. [ fifteen ] paris chào đón 12,6 triệu lượt khách vào năm 2020, tính theo thời gian lưu trú tại khách sạn, giảm seventy-three % so với năm 2019, do virus COVID-19. Số lượng du khách nước ngoài giảm 80,7 %. [ sixteen ] Các bảo tàng được mở cửa trở lại vào năm 2021, với giới hạn về số lượng khách tham quan tại một thời điểm và yêu cầu du khách bắt buộc phải đeo khẩu trang .

Câu lạc bộ bóng đá paris Saint-Germain và câu lạc bộ bóng bầu dục liên hiệp Stade Français có trụ sở tại paris. Sân vận động Stade delaware france có sức chứa 80.000 chỗ ngồi, được xây dựng để chuẩn bị cho FIFA global cup 1998, tọa lạc phía bắc paris ở xã Saint-Denis lân cận. paris tổ chức giải quần vợt thousand slam thường niên Pháp Mở rộng trên sân đất nện Roland Garros. Thành phố này đã đăng cai Thế vận hội Mùa hè vào các năm 1900, 1924 và sẽ đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2024. Các kỳ FIFA world cup 1938 và 1998, populace cup rugby 2007, cũng như UEFA euro 1960, 1984 và 2016 đều được tổ chức tại thành phố này. Vào tháng seven hàng năm, giải đua xenon đạp go delaware france kết thúc tại đại lộ Champs-Élysées ở paris.

“ paris ” xuất phát từ tên gọi những người Parisii bộ tộc Gaulois. Năm fifty-two trước Công Nguyên, chi người la Mã tới, họ gọi khu vực này là Lutetia hay Lutetia Parisiorum. Khoảng năm three hundred, Lutetia được đổi tên thành Paris, lấy từ chữ “Civitas Parisiorum” – có nghĩa Thành của người Parisii. Còn nguồn gốc tên những người Parisii vẫn chưa được chắc chắn. Hiện nay, ở paris cũng có một khách sạn nổi tiếng mang tên Lutetia. Trong tiếng Việt, paris từng được gọi phổ biến bằng tên Ba Lê, âm Hán-Việt của 巴黎 ( pinyin : Bālí ; dùng tiếng Trung phiên âm tên gốc tiếng Pháp right ascension chữ Hán rồi quy whistle âm Hán Việt tương ứng ). Tuy nhiên, tên gọi này hiện nay ít được sử dụng, và tên gọi Ba Lê còn trùng âm với nghệ thuật múa bachelor of arts lê, xuất phát từ chữ ballet trong tiếng Pháp. Dựa vào phiên âm, paris được viết là Pa-ri, tương tự Mát-xcơ-va cho Moskva. Nhưng cách phiên âm Pa-ri cũng không hẳn chính xác. Trong chi với những người Anh, paris được phát âm là /ˈpærɪs/ ( Pa-ríts ), thì những người Pháp gọi tên thủ đô của mình là /paʁi/ ( trợ giúp · thông can ). paris nổi tiếng với tên gọi “ Kinh đô ánh sáng “, vốn từ trong tiếng Pháp là “ Ville lumière ”, dịch chính xác là Thành phố ánh sáng, cũng giống trong tiếng Anh : The City of Lights. Tên gọi này được bắt đầu từ nghĩa đen của nó : cuối thế kỷ seventeen, trung tướng cảnh sát đầu tiên của paris gabriel Nicolas delaware lanthanum Reynie right ascension lệnh thắp sáng những khu vực công cộng nhiều tệ nạn của thành phố. Nhưng bởi paris nổi tiếng với vị trí trung tâm văn hóa, tri thức của cả thế giới, nên tên gọi này thường được hiểu theo nghĩa bóng. Cùng với venice, paris còn được ví là “ Thành phố của tình yêu ”. Những người yêu thích paris cũng nói : Chỉ cần thêm hai chữ cái, Paris trở thành thiên đường. Trong tiếng Pháp, thêm hai chữ deoxyadenosine monophosphate và vitamin d, Paris thành Paradis, có nghĩa là thiên đường. Từ “ parisien ” trong tiếng Pháp là tính từ của paris, cũng là danh từ để chỉ những người dân của thành phố này. Ngoài right ascension, “ parisien ” còn là một từ lóng được các nhà văn của thế kỷ nineteen như victor hugo, Eugène action hay balzac sử dụng rộng rãi và còn phổ biến cho tới thập niên 1950. Một tên gọi thân mật khác của paris là “ Paname ” từ đầu thế kỷ twenty chi những chiếc mũ panama phổ biến. Bắt đầu bởi các công nhân đào con kênh boater, loại mũ này rất thịnh hành ở Mỹ và châu Âu. Rồi đến paris, tất cả đàn ông đều đội một chiếc panama và nó thành một tên gọi cho thành phố. Cũ hơn nữa, paris và một trong các ngoại ô là Pantin được gọi lóng là “ Pantruche ” theo tên công ty tổ chức lễ hội Carnaval của paris : Compagnie Carnavalesque parisienne “ lupus erythematosus Fumantes delaware Pantruche ”. “ Parigot ” cũng là một từ lóng để chỉ những người paris, nhưng từ này ít nhiều mang tính châm chọc, chế giễu .

Ảnh vệ tinh khu vực Paris
Île de la Cité và Île Saint-Louis
Nằm ở phía Bắc nước Pháp. paris được xây dựng hai bên bờ sông seine với tâm là đảo Île delaware la Cité. Tại trung tâm của bồn địa chất paris, trên một vùng trầm tích bằng phẳng rộng lớn, Đây cũng là nơi hợp lưu của sông seine và sông Marne với dân số ước tính là 2.165.423 người tính đến năm 2019, trên diện tích hơn 105,4 km2 ( 40,7 dặm vuông Anh ). [ four ]. Hai đảo của sông tạo nên trung tâm lịch sử của thành phố : Île delaware la Cité ở phía tây và Île Saint-Louis ở phía đông. Từ tâm này, thành phố trải rộng right ascension xung quanh, nhưng phần diện tích paris ở phía bắc – tức hữu ngạn sông seine – rộng hơn bên tả ngạn phía nam rõ rệt. Cả hai bên sông seine, một số vùng đất tạo bởi đá thạch cao nhô lên thành những quả đồi nhỏ [ seventeen ]. Ở hữu ngạn : đồi montmartre có độ cao là 131 mét, đỉnh là vị trí nhà thờ Saint-Pierre [ eighteen ] ; Belleville cao 128,5 thousand tại phố Télégraphe ; Ménilmontant 108 meter ; công viên Buttes-Chaumont 103 molarity ; Passy seventy-one m. Bên tả ngạn : Montparnasse cao sixty-six megabyte ; butte aux Cailles sixty-three thousand ; đồi Sainte-Geneviève sixty-one megabyte. Vào năm 1844, nội ô paris ( paris intra-muros ) được giới hạn bởi bức tường thành Thiers. Tới năm 1860, một số hạt và quận xung quanh được sáp nhập vào thành phố. Còn ngày nay, paris được phân định với ngoại ô bằng các đại lộ vành đai dài thirty-five kilometer. Tuy nhiên có một vài ngoại lệ. Quận fifteen vượt qua ranh giới này tới sân bay trực thăng Issy-les-Moulineaux. Quận sixteen bao gồm cả rừng Boulogne rộng 846 hecta ở phía tây. Còn rừng Vincennes rộng 995 hecta thuộc Quận twelve ở phía Đông. Tổng cộng chu united states virgin islands của paris dài tới 54,74 kilometer. Thành phố paris rộng one hundred five km². Nếu tính khu vực đô thị paris, có nghĩa gồm thành phố và đô thị ngoại ô, tổng diện tích là 2.723 km² với 9.644.507 dân vào năm 1999, chiếm 396 xã của vùng Île-de-France [ nineteen ]. Còn toàn bộ vùng đô thị paris, có nghĩa bao gồm tất cả các vùng phụ cận chịu ảnh hưởng của thủ đô, vào năm 1999 có dân số 11.174.743 người trên tổng cộng 1.584 xã [ twenty ]. Điểm trung tâm của Pháp được đánh dấu ở sân trước nhà thời Đức Bà, có tọa độ địa lý 48,85341°N, 2,34880°E .

Địa chất thủy văn [sửa |sửa mã nguồn ]

Quang cảnh Paris nhìn từ tháp Eiffel
Bồn địa chất paris tạo nên một tập hợp các lớp trầm tích kế tiếp. Đây là một trong những nơi đầu tiên trở thành đối tượng của việc xây dựng bản đồ địa chất và cho phép tạo radium nhiều lý thuyết về địa chất, như cổ sinh vật học và giải phẫu therefore sánh của george cuvier [ twenty-one ]. Bồn paris được tạo trong khoảng thời gian forty-one ngàn năm. Đây là một bồn thềm lục địa trên những khối núi từ thời Đại cổ sinh như khối núi Vosges, khối núi massif central, khối núi Armorica. Với sự tạo thành của dãy alp, bồn paris bị đóng lại, chỉ còn mở right ascension phía biển Manche và Đại Tây Dương. Nó báo trước cho sự hình thành lưu vực sông loire và sông seine. Cuối thế Oligocen, bồn paris trở thành lục địa [ twenty-one ]. Năm 1911, nhà địa lý paul Lemoine chỉ right ascension rằng bồn paris được hợp bởi những địa tầng bố trí thành những vùng trũng đồng tâm [ twenty-one ] [ twenty-two ]. Sau đó, các nghiên cứu sâu hơn trên nhưng dữ liệu địa chấn và phương pháp khoan đã cho phép có một cái nhìn chính xác. Chúng xác nhận những vùng trũng đồng tâm nhưng phức tạp giống như các phay. Sự cấu tạo của địa hình paris nằm ở các tầng Đại Trung Sinh và Kỷ Paleogen và được tạo bởi sự xói mòn. Địa tầng đầu tiên bắt đầu từ Kỷ Đệ tam tiếp tục bồi đắp bởi sông seine vào thời kỳ hiện đại. Các lớp đọng đầu tiên là cát và đất sét xuất hiện ở khu vực Trocadéro, Quận sixteen ngày nay. Nhưng giai đoạn được biết tới nhiều nhất là tầng Lutetia với các lớp đọng giàu thạch cao và đá vôi [ twenty-three ]. Tầng động vật này đã được đặt theo tên tiếng la Tinh của paris : Lutetia. Lòng đất của paris mang nhiều đặc tính với sự hiện diện của đá vôi, thạch cao và đá vôi silic. Một số đã được sử dụng như ở Hầm mộ paris, ngày nay vẫn được mở cửa một phần cho công chúng. Đá vôi được khai thác cho tới thế kỷ fourteen ở tả ngạn sông seine, từ quảng trường Italie tới phố Vaugirard. Ngày nay sự khai thác chuyển về Oise [ twenty-four ]. Còn việc khai thác thạch cao từng rất phổ biến ở montmartre và Bagneux. Dòng sông seine chảy qua paris theo hình một cánh cung : vào thành phố từ phía đông nam và ra khỏi thành phố phía tây bắc. Hơn thirty cây cầu của paris bắc qua dòng sông này. Còn có hai dòng chảy khác qua paris. Sông Bièvre phía nam, ngày nay ngầm hoàn toàn dưới đất. Kênh Saint-Martin hoàn thành 1825 dài 4,5 kilometer, nối với bồn Villette vào thành phố ở phía đông bắc. Kênh Saint-Martin chảy ngầm dưới đất cho tới phố Faubourg-du-Temple ở quảng trường bastille rồi tiếp tục chảy lộ thiên và nối với sông seine ở phía thượng lưu của đảo Île Saint-Louis. Một con kênh khác là Saint-Denis, cũng nối với bồn Villette theo hướng Saint-Denis, dài 4,5 kilometer và hoàn thành vào năm 1821. con kênh này gặp sông seine ở phần hạ lưu và không đi qua paris [ twenty-five ]. Một dòng sông nữa là Marne, chảy gần paris qua Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne và gặp sông seine ở phía đông nam thành phố. Địa chất thủy văn đã ảnh hưởng nhiều tới quy hoạch đô thị paris. Sông Bièvre, một nhánh nhỏ của sông seine, đã bị che lại, chỉ chảy ngầm dưới đất từ thế kỷ nineteen bởi vấn đề vệ sinh. Nhiều dòng nước ngầm khác dưới lòng paris, như Auteuil đã cung cấp nước cho thành phố bởi các giếng khoan. Các mạch nước tầng Alba được biết đến nhiều nhất trong vùng paris và được khai thác từ năm 1841 bởi giếng Grenelle [ twenty-six ] .

Khí hậu và môi trường [sửa |sửa mã nguồn ]

do có vị trí nằm ở vùng ôn đới, nên paris có khí hậu tương đối ôn hoà. Ảnh hưởng của đại dương khí hậu ở paris chiếm ưu thế, thể hiện như : mùa hè mát, trung bình eighteen °C ; mùa đông không quá lạnh, trung bình six °C ; các mùa đều mưa nhiều và thời tiết thất thường. Lượng mưa trung bình ở paris là 641 millimeter. Mưa tuyết không nhiều, chủ yếu vào những tháng lạnh nhất như tháng one, tháng two, nhưng đôi chi vào tận tháng four. Tuy vậy khí hậu paris cũng đôi chi đột biến. Nhiệt độ cao nhất ghi được tại đây là vào ngày twenty-five tháng seven năm 2019, lên đến 42,6 °C. Còn nhiệt độ thấp nhất ghi lại được vào ngày ten tháng twelve năm 1879, xuống tới -23,9 °C [ twenty-seven ]. Mùa hè năm 2003, cùng với châu Âu, paris cũng phải chịu một trận nắng nóng lịch sử. Như tất cả các thành phố lớn khác trên thế giới, paris chịu hậu quả của sự thay đổi môi trường do dân số tăng và các hoạt động kinh tế [ twenty-eight ]. Là thủ đô có mật độ dân số cao nhất châu Âu nhưng tỷ lệ không gian xanh ở paris lại thấp nhất, dù những thập kỷ gần đây một số công viên và vườn mới được tạo thêm. Không chỉ là lời đồn, vấn đề phân chó thực sự có ở paris. Nó vẫn xuất hiện trên vỉa hè, dù ngày nay nhiều người dắt chó đi dạo phải mang theo túi nickel lông để nhặt phân chó [ twenty-nine ] .

Dữ liệu khí hậu của Paris Montsouris (1981–2010)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 16.1 21.4 25.7 30.2 34.8 37.6 42.6 39.5 36.2 28.9 21.4 17.1 42,6
Trung bình cao °C (°F) 7.2 8.3 12.2 15.6 19.6 22.7 25.2 25.0 21.1 16.3 10.8 7.5 16,0
Trung bình thấp, °C (°F) 2.7 2.8 5.3 7.3 10.9 13.8 15.8 15.7 12.7 9.6 5.8 3.4 8,9
Thấp kỉ lục, °C (°F) −14.6 −14.7 −9.1 −3.5 −0.1 3.1 6.0 6.3 1.8 −3.1 −14 −23.9 −23,9
Giáng thủy mm (inch) 51.0
(2.008)
41.2
(1.622)
47.6
(1.874)
51.8
(2.039)
63.2
(2.488)
49.6
(1.953)
62.3
(2.453)
52.7
(2.075)
47.6
(1.874)
61.5
(2.421)
51.1
(2.012)
57.8
(2.276)
637,4
(25,094)
% độ ẩm 83 78 73 69 70 69 68 71 76 82 84 84 75,6
Số ngày giáng thủy TB

(≥ 1.0 mm)

9.9 9.0 10.6 9.3 9.8 8.4 8.1 7.7 7.8 9.6 10.0 10.9 111,1
Số ngày tuyết rơi TB 4.2 3.7 2.6 0.9 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 1.4 2.7 15,5
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 62.5 79.2 128.9 166.0 193.8 202.1 212.2 212.1 167.9 117.8 67.7 51.4 1.661,6
Nguồn #1: Meteo France[30][31]
Nguồn #2: Infoclimat.fr (độ ẩm, ngày tuyết rơi 1961–1990)[32]

paris có một lịch sử lâu đời, gắn liền với lịch sử Pháp và cả châu Âu. Từ một thành trì của người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois, nơi đây trở thành một thành phố la Mã vào thế kỷ one. Tới thế kỷ six, vua clovis one lấy paris làm thủ đô cho vương quốc franc. Trải qua nhiều thế kỷ biến động, mặc dù không liên lục, paris vẫn là thủ đô của Pháp. Tới thế kỷ eighteen, thành phố là nơi nổ right ascension Cách mạng Pháp, rồi sau đó trở thành thủ đô của Đệ nhất đế chế thời Napoléon napoleon. Vào thế kỷ nineteen, paris bắt đầu có những phát triển vượt bậc và được quy hoạch lại dưới thời Napoléon three. Sau Công xã paris, thành phố bước vào thời kỳ belle Époque và trở thành trung tâm văn hóa của cả châu Âu. Qua hai cuộc chiến tranh thế giới, paris ít bị hủy hoại và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn hậu chiến. Ngày nay, thành phố tiếp tục là một trung tâm văn hóa, kinh tế của cả thế giới .

Tiền sử và Cổ đại [sửa |sửa mã nguồn ]

Tấm bản đồ đầu tiên của Paris, thời mang tên Lutetia, thuộc La Mã
Cách đây ít nhất 40.000 năm đã có sự hiện diện của victimize người ở vùng Île-de-France, bằng chứng là những công cụ đá được tìm thấy ở bờ sông seine [ thirty-three ]. Vào đầu thời kỳ Đồ đá mới, khoảng năm 4.000 đến 3.800 trước Công Nguyên, bunco người đã sinh sống thường xuyên ở bờ trái một nhánh cũ của sông seine, thuộc Quận twelve ngày nay [ thirty-four ] [ thirty-five ]. Dường như sự sống của con người đã liên tục ở đây suốt thời kỳ Đồ đá mới, nhưng không có nhiều hiểu biết về khoảng thời gian từ thời Tiền sử cho tới thời kỳ Gaule louisiana Mã [ thirty-six ]. Những người Parisii thuộc bộ tộc Gaulois đã làm chủ khu vực này cho đến năm fifty-two trước Công Nguyên, chi quân đội của Julius caesar tới. Trong trận chiến với quân đội lanthanum Mã, người Gaulois đã phá cầu, đốt thành của mình. Cũng không biết chính xác thành của người Gaulois đã nằm ở đâu : Île delaware la Cité, Île Saint-Louis, hay một hòn đảo khác mà ngày nay đã nhập vào tả ngạn. Thậm chí có thể là ở tận Nanterre [ thirty-seven ]. Sau thất bại của những người Gaulois, nơi đây trở thành Lutetia. Vào thế kỷ one, một thành phố lanthanum Mã được xây dựng ở bờ trái sông seine theo bản vẽ kiểu Hippodamos. Lutetia chỉ có khoảng five tới six ngàn dân vào thời kỳ đỉnh cao. Trong đế chế lanthanum Mã, nó chỉ là một thành phố khiêm tốn, so sách với Lugdunum vào thế kỷ two có tới 50.000 đến 80.000 người [ thirty-eight ]. Theo truyền thuyết thì Thánh Denis, người tử vì đạo khoảng năm 250, đã truyền Cơ Đốc giáo vào thành phố. Khoảng năm three hundred, Lutetia được đổi tên thành paris. Năm 451, trước sự xâm lược của người hang và người attila, Thánh Geneviève – một người có ảnh hưởng to lớn của Cơ Đốc giáo chi đó và về sau trở thành thánh bảo trợ của paris – đã đến thuyết phục những người dân paris không chạy trốn. Nhưng sau đó họ đã thất bại ở trận chalons [ thirty-nine ] .
Tấm bản đồ thứ tư của Paris, năm 1223
Thời kỳ Trung Cổ, thành phố thoát khỏi sự cai trị của những người attila trong một thời gian ngắn rồi Childéric one tới chiếm vào năm 464. Năm 508, sau chi chiến thắng những người lanthanum Mã, clovis iodine – con trai của Childéric iodine – lấy paris làm thủ đô của vương quốc franc và sống ở đây tới chi chết vào năm 511. Trong khoảng thời gian sau đó, thành phố cùng các công trình tôn giáo tiếp tục được xây dựng. Vào thế kỷ nine, các bức thành được dựng lên bên ở hữu ngạn để bảo vệ các giáo khu Saint-Gervais và Saint-Germain-l’Auxerrois. Năm 845, những người viking tới đánh paris lần đầu tiên, dân chúng phải rời bỏ thành phố. Các cuộc tấn công này còn kéo dài tới đầu thế kỷ ten và được kết thúc bởi hòa ước Saint-Clair-sur-Epte năm 911 [ forty ]. Năm 987, dòng họ capet lên trị vì. chi đó, paris và Orléans là hai thành phố lớn nhất trong lãnh thổ và vương triều capet đã chọn Orléans. Hugues capet, mặc dù cung điện ở Île delaware lanthanum Cité nhưng ít chi sống ở đây. robert two thì đến paris thường xuyên hơn. Từ thế kỷ eleven, paris trở thành một trung tâm quan trọng của giáo dục tôn giáo [ forty-one ]. Quyền lực hoàng armed islamic group dần được tập trung ở paris và thành phố trở lại thành thủ đô của vương quốc từ thời vua louis six, rồi Philippe Auguste. Là điểm giao của các victimize đường buôn bán lớn, paris trở nên giàu có nhờ thương mại. Lúa mì vào thành phố từ phố Saint-Honoré, dạ ở phố Saint-Denis, và cá từ biển Bắc và biển Manche đến paris ở phố Poissonniers … Vào năm 1150, dân số paris ước tính khoảng 50.000 người. Năm 1163, giáo mục Maurice delaware sully xây dựng nhà thờ Đức Bà trên đảo Île delaware louisiana Cité. Sự quan trọng của thành phố tăng lên, paris trở thành trung tâm chính trị lẫn tôn giáo. Tả ngạn sông seine với các nhà thờ đóng vai trò quan trọng về giáo dục. Còn hữu ngạn là trung tâm của thương mại và tài chính. Vào thời kỳ này, các trường học của giáo hội gây dựng được tiếng tăm và muốn trở nên độc lập. Dưới thời vua Philippe two, năm 1215, Đại học paris được thành lập. Vua ideal louis lên ngôi năm 1226, cho xây dựng nhà thờ Sainte-Chapelle và tiếp tục công trình nhà thờ Đức Bà. Khoảng 1328, dân số paris ước tính khoảng 200.000 người, là thành phố đông dân nhất châu Âu [ forty-two ]. Nhưng năm vào 1348, nạn dịch hạch đen đã tàn sát dân chúng thành phố. Trong thế kỷ fourteen, bức tường thành của vua charles five bao gồm cả Quận three và Quận four ngày nay, và trải từ cầu Pont royal tới cửa ô Saint-Denis. Năm 1337 nổ ra cuộc chiến tranh Trăm năm. Sự bất mãn của dân chúng đã nuôi tham vọng của quan thái thú Étienne marcel gây nên chính biến lớn đầu tiên trong lịch sử Pháp vào năm 1358. Điều này khiến các vị vua không còn ở trong trung tâm thành mà tới Hôtel Saint-Pol, rồi Hôtel delaware Tournelles, nơi dễ dàng thoát chi có binh biến. Năm 1407 nổ right ascension cuộc nội chiến giữa hai phe armagnac và bourguignon, tới 1420 mới kết thúc [ forty-three ]. Chiến tranh Trăm năm vẫn tiếp tục, paris nằm trong phần lãnh thổ serve người Anh kiểm soát. Năm 1429, Jeanne d’Arc thất bại trong việc đánh đổ người Anh và đồng minh là bourguignon rồi bị thiêu sống năm 1431. Tới năm 1453, thời vua charles seven, chiến tranh kết thúc. Nhưng charles seven và bunco trai là louis eleven lại chuyển đến Val delaware loire. Trong khoảng từ 1422 đến 1500, dân số paris tăng lên, từ hundred ngàn thành one hundred fifty ngàn người. Giữa thế kỷ sixteen, tuy kinh tế có phát triển nhẹ, nhưng thiếu vắng triều đình, paris chuyển thành một thành phố hành chính và tư pháp [ forty-four ] .

Từ Phục Hưng tới thế kỷ eighteen [sửa |sửa mã nguồn ]

Paris năm 1607
Vào thời kỳ Phục Hưng, triều đình vẫn ở Val delaware loire. paris tiếp tục được mở rộng nhưng khá lộn xộn. Năm 1500, quy tắc xây dựng đô thị đầu tiên được ban bố [ forty-five ]. Tới năm 1528, François iodine chính thức chuyển về paris. Theo ý muốn của nhà vua, ở Collège delaware france, giáo dục hiện đại hướng đến chủ nghĩa nhân đạo và khoa học chính xác. Dưới sự trị vì của François iodine, paris đạt tới 280.000 người và tiếp tục là thành phố đông dân nhất Tây Âu. [ forty-six ] Từ 1562 tới 1598 là khoảng thời gian Chiến tranh tôn giáo với eight cuộc xung đột liên tiếp. Ngày twenty-four tháng eight năm 1572, dưới thời charles nine, đã xảy right ascension vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy. Những người Công giáo tàn sát những người Kháng Cách khắp paris với số nạn nhân trong khoảng two ngàn tới ten ngàn người [ forty-seven ]. Giáo hội Pháp, đặc biệt ở paris, nổi dậy chống lại vua Henri three vào năm 1588. Ngày two tháng eight năm 1589, Henri three bị ám sát, Henri delaware Navarre trở thành vua Henri intravenous feeding của Pháp năm 1589. paris, mặc dù đổ nát và hoang tàn đã không mở cửa cho nhà vua cho tới tận 1594. Năm 1610, một kẻ cuồng tín ám sát Henri four trên phố Ferronnerie, paris. Năm 1648, một vụ nổi loạn của dân paris là nguyên nhân khiến kinh tế giảm sút. Mặc dù số lượng người chết cao hơn số lượng sinh, nhưng dân số paris vẫn đạt tới 400.000 nhờ những cuộc di cư từ các tỉnh. Thời kỳ này, paris là một thành phố thảm hại và kém associate in nursing ninh. Khu phố Caire và Réaumur, ở quận Quận two ngày nay, tràn ngập trộm cắp và ăn mày, được gọi là Cour diethylstilbestrol miracle. Từ năm 1656, nhờ trung tướng cảnh sát gabriel Nicolas delaware la Reynie, nó mới dần bị dẹp bỏ [ forty-eight ]. Kể từ louis thirteen, và tiếp đó là louis fourteen, các vị vua Pháp chuyển đến sống tại cung điện versailles. Năm 1682 triều đình cũng chuyển về versailles, Jean-Baptiste colbert trở thành người quản lý paris. Mặc dù versailles nằm rất gần paris, nhưng trong suốt thời gian trị vì louis fourteen chỉ đến paris twenty-four lần để dự các buổi lễ chính thức [ forty-nine ]. Năm 1715, công tước Philippe two, chi đó là nhiếp chính, rời versailles về Palais-Royal trong paris. Tiếp đó vị vua trẻ louis fifteen sống tại cung điện tuileries. Một lần nữa, triều đình quay về paris. Nhưng từ 1722, louis fifteen lại trở lại cung điện versailles [ fifty ]. Trong thế kỷ eighteen, paris trở thành trung tâm tri thức, nơi sản sinh những tư tưởng của Khai sáng, là thời kỳ hoàng kim của các phòng khách văn học. Thế kỷ eighteen còn là giai đoạn paris phát triển mạnh mẽ về kinh tế khiến dân số tăng nhanh, đạt tới con số 640.000 người [ fifty-one ] trước chi nổ radium Cách mạng Pháp. Thành phố chi đó trải rộng bằng khoảng six quận trung tâm của paris hiện nay, vườn luxembourg-ville đánh dấu ranh giới phía tây. Tuy ở versailles, louis fifteen vẫn yêu thích thành phố, quyết định xây dựng quảng trường louis fifteen – tức quảng trường Concorde – cùng việc mở ra trường quân sự École militaire vào năm 1752 [ fifty-two ]. Và hơn hết là việc xây dựng một nhà thờ ở Sainte-Geneviève vào năm 1754, chính là Điện Panthéon [ fifty-three ] .

Cách mạng và Đế chế [sửa |sửa mã nguồn ]

Lễ Fédération, 14 tháng 7 năm 1790
Cách mạng Pháp được bắt đầu ở versailles với sự triệu tập Hội nghị các đẳng cấp và sau đó là Lời tuyên thệ Jeu delaware paume, những người thuộc Đẳng cấp thứ bachelor of arts tự thành lập quốc hội. Nhưng nguyên nhân chính của cách mạng là ở paris : những người dân bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế, giá bánh mỳ tăng, nhạy cảm với chính trị bởi các tư tưởng Khai sáng và oán giận triều đình cùng tầng lớp quý tộc [ fifty-four ]. Việc chiếm ngục bastille ngày fourteen tháng seven năm 1789 là bước đầu tiên. Jacques delaware Flesselles – prévôt des marchands của thành phố, tương đương thị trưởng – bị giết. Ngày fifteen tháng seven, nhà thiên văn jean Sylvain Bailly tới Tòa thị chính trở thành thị trưởng đầu tiên của paris. Đến cuối tháng seven thì tinh thần chủ quyền nhân dân local area network radium khắp nước Pháp. Ngày four tháng eight, Quốc hội tuyên bố bãi bỏ chế độ phong kiến. Ngày five tháng ten, những người nổi dậy tới versailles vào buổi tối. Sáng ngày six, họ chiếm lâu đài và buộc nhà vua phải quay trở lại paris, trú ngụ ở cung điện tuileries. Sau đó một Quốc hội lập hiến được triệu tập ở tuileries ngày nineteen tháng ten [ fifty-five ]. Ngày fourteen tháng seven năm 1790, lễ hội Fédération được tổ chức ở Champ-de-Mars mừng một năm ngày phá ngục bastille. Quốc hội với nhiều bè phái dẫn tới mâu thuẫn. Đa số vẫn ủng hộ chế độ quân chủ, đã đi đến thỏa thuận cho vua louis làm một đấng quân vương bù nhìn. Tình hình chính trị rối loạn đẩy Pháp vào cuộc chiến tranh với Áo và các đồng minh. Ngày twenty tháng four năm 1792, Pháp khai chiến với Áo, tình hình trong nước hỗn loạn. Đêm nine tháng seven năm 1792, những người cách mạng chiếm Tòa thị chính thành phố. Trong ngày ten tháng eight, đám đông vây hãm cung điện tuileries với sự ủng hộ của chính quyền thành phố mới. Vua louis sixteen cùng hoàng armed islamic group bị tống giam ở tour du temple. Ngày twenty-one tháng nine năm 1792, chính quyền tuyên bố chấm dứt chế độ quân chủ và lập radium nền Cộng hòa. Ngày twenty-one tháng one, tại quảng trường louis fifteen – được đặt tên lại là quảng trường Cách mạng – louis sixteen bị hành quyết bởi tội danh âm mưu chống lại tự do nhân dân và an ninh chung. Sau đó tới maria Antonia của Áo, danton, lavoisier và robespierre cùng khoảng 1200 người khác bị ghép vào tội phản cách mạng, lĩnh án tử hình [ fifty-six ]. Thời kỳ Cách mạng không phải là giai đoạn tốt cho việc phát triển thành phố. Rất ít công trình được xây dựng và nhiều nhà thờ, tu viện bị phá hủy. Đến thời kỳ Đốc chính, một số công trình phong cách Tân cổ điển mọc lên. Vào năm 1800, dân số paris khoảng 548.000 người. Đến năm 1806, nhờ các cuộc di cư từ các tỉnh, dân số paris lên đến 650.000 người [ fifty-one ]. therefore với Luân Đôn, từ giữa thế kỷ eighteen, paris bị bỏ xa về kinh tế lẫn dân số. Năm 1800, dân số Luân Đôn đã xấp xỉ 1.000.000 người. Năm 1799, Napoléon napoleon lên nắm quyền. Ngày two tháng twelve năm 1804, Napoléon nhận tôn phong hoàng đế từ Giáo hoàng proto-indo european seven tại nhà thờ Đức Bà. paris tiếp tục là thủ đô của Đệ nhất đế chế Pháp .

Từ thời kỳ Khôi phục tới Công xã paris [sửa |sửa mã nguồn ]

Đại lộ Opéra sau cải tạo Paris thời Đệ nhị đế chế, tranh của Camille Pissarro
Sự sụp đổi của Đệ nhất đế chế vào 1814 và 1815 dẫn đến việc quân đội Anh và national geospatial-intelligence agency tới đồn trú ở paris. louis eighteen trở về từ nơi lưu đày, ngụ tại cung điện tuileries. louis eighteen và charles x, rồi cả nền Quân chủ tháng bảy ít bận tâm tới quy hoạch đô thị paris. Giai cấp công nhân phát triển mạnh, sống chen chúc trong các khu phố trung tâm, mật độ tới 100.000 người một km². Dịch tả năm 1832 sát hại 32.000 người. Vào năm 1848, eighty % số người chết bị chôn ở các huyệt tập thể và hai phần barium dân paris quá nghèo để trả tiền thuế. Những người dân bị bần cùng hóa tiếp tục nổi dậy khiến charlemagne adam, rồi Louis-Philippe one phải thoái vị. Đây cũng là giai đoạn paris có nhiều phát triển. Năm 1825, việc xây dựng kênh Saint-Martin hoàn tất. Ngày twenty-six tháng eight năm 1837, tuyến đường sắt đầu tiên của Pháp hoàn thành, nối paris với Saint-Germain-en-Laye. Các nhà gallium Saint-Lazare, Gare du Nord, các tuyến đường sắt Paris-Orléans, Paris-Rouen được xây dựng mở ra kỷ nguyên đường sắt. Năm 1825, chiếu sáng công cộng bằng khí gaz được thử nghiệm ở quảng trường Vendôme. Và tới năm 1843, chiếu sáng bằng điện được thử nghiệm ở quảng trường Concorde. Xã hội phức tạp thời kỳ này được phản ánh qua các tác phẩm của balzac, winner hugo hay Eugène sue. Đệ nhị đế chế bắt đầu từ năm 1852. Dưới thời Napoléon three, paris có những thay đổi triệt để. Trong vòng không đến twenty năm, từ một thành phố với cấu trúc cũ, paris trở thành một thành phố hiện đại. Napoléon three cùng Nam tước Haussmann có những ý tưởng chính xác về quy hoạch thành phố : các con phố, đại lộ được vẽ lại, quy định về mặt ngoài các ngôi nhà, bố trí các không gian xanh … Ngày one tháng năm 1860, một đạo luật cho phép sáp nhập một loạt hạt xung quanh với paris. Từ twelve quận với 3.288 hecta, paris trở thành twenty quận với tổng diện tích 7.088 hecta. Sự phát triển đô thị còn tiếp tục vào cuối thế kỷ nineteen, đầu thế kỷ twenty. Trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, năm 1870 paris bị quân đội Phổ vây hãm trong nhiều tháng. Ngày eight tháng two năm 1871, một chính phủ mới được bầu. Tới ngày twenty-six tháng two, một hiệp định sơ bộ được ký ở versailles chuẩn bị cho hiệp ước frankfurt on the main – mà nước Pháp quá thua thiệt – sau đó. Tới ngày one tháng five, mang tính tượng trưng, những nhóm quân Phổ vào paris diễu hành trên đại lộ Champs-Élysées. Dân chúng paris bất mãn, nổi dậy ngày eighteen tháng five năm 1871, là sự bắt đầu của Công xã paris. Adolphe Thiers cùng chính phủ phải tạm thời chuyển về versailles ngày twenty tháng three. Từ twenty-two tới twenty-eight tháng five là Tuần lễ đẫm máu kết thúc Công xã paris [ fifty-seven ] · [ fifty-eight ] .

Từ belle Époque tới Chiến tranh thế giới thứ hai [sửa |sửa mã nguồn ]

Trong thời kỳ belle Époque, paris có những bước phát triển kinh tế quan trọng. Năm 1913, thành phố có tới một ngàn công ty với một triệu nhân công [ fifty-nine ]. Trong khoảng thời quan 1900 tới 1913, sau sự ra đời của điện ảnh, one hundred seventy-five rạp chiếu phim được mở ở paris. Các đại cửa hàng cũng bắt đầu xuất hiện, mở đầu là lupus erythematosus Bon Marché, rồi tới lanthanum Samaritaine, Galeries lafayette … Hai cuộc triển lãm thế giới vào năm 1889 và 1900 minh chứng cho giai đoạn hoàng kim của belle Époque. Tháp eiffel xây dựng nhân triển lãm năm 1889, kỷ niệm hundred năm Cách mạng Pháp. Tuyến tàu điện ngầm đầu tiên cùng grand piano Palais, Petit Palais và cầu Alexandre-III hoàn thành năm 1900. Công nghiệp phát triển chuyển radium ngoài ngoại thành : hãng ô tô Renault ở Boulogne-Billancourt và Citroën ở Suresnes. Một số lĩnh vực khác, như ngành inch và báo chí, vẫn ở lại trong nội ô thành phố [ sixty ]. belle Époque cũng là thời kỳ mà paris trở thành trung tâm văn hóa của thế giới. Thành phố sản sinh radium nhiều nghệ sĩ lớn cùng rất nhiều các nhà văn, họa sĩ nổi tiếng của Pháp và khắp nơi trên thế giới tới paris. Năm 1910, sông seine với một trận lụt thế kỷ đã làm thành phố thiệt hại tới barium tỷ franc [ sixty-one ]. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, paris tránh được những trận đánh nhưng phải chịu các cuộc ném bom và nã pháo của quân đội Đức. Tuy vậy các cuộc ném bom này chỉ lẻ tẻ và mang tính chất tâm lý [ sixty-two ]. Vào khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến, thành phố phải đối mặt với những khủng hoảng về kinh tế và xã hội. Để giải quyết vấn đề nhà ở, những chung cư bình dân được lập nên. Bên cạnh đó, ngoại ô cũng được chia lô để xây dựng các ngôi nhà. Vào năm 1921, dân số paris lên đến 2.906.000 người [ sixty-three ]. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Pháp đầu hàng, Chính phủ của thống chế Pétain chuyển đến vichy. paris trở thành trụ sở chỉ huy của quân đội Đức tại Pháp [ sixty-four ]. Ngày sixteen và seventeen tháng seven năm 1942, 12.884 người do Thái – cả phụ nữ và trẻ em – bị bắt [ sixty-five ]. Ngày six tháng six năm 1944, các lực lượng Đồng Minh đổ bộ vào bờ biển normandie và tới ngày twenty-five tháng eight, paris được giải phóng. Trước chi rút quân, tướng dietrich von Choltitz đã trái lệnh Adolf hitler, không cho phá hủy thành phố [ sixty-six ] .

paris đương đại [sửa |sửa mã nguồn ]

Năm 1956, paris trở thành thành phố sinh đôi của gypsy, như một biểu tượng của sự hòa giải sau Chiến tranh thế giới thứ hai [ sixty-seven ]. Trong nhiệm kỳ của tổng thống charles delaware Gaulle, từ 1958 tới 1969, nhiều sự kiện chính trị đã diễn radium ở thủ đô. Ngày seventeen tháng ten năm 1961, một cuộc biểu tình cho nền độc lập của Algérie bị cảnh sát đàn áp, ước tính thirty-two tới 325 người chết [ sixty-eight ]. Từ ngày twenty-two tháng three năm 1968, một phong trào sinh viên, bắt đầu từ Đại học Nanterre local area network dần tới khu phố louisiana Tinh trở thành một vụ bạo loạn. Đỉnh điểm ngay thirteen tháng five, một cuộc biểu tình với 800.000 người chống lại cảnh sát. Phải sau hai tháng, tình hình mới yên tĩnh trở lại [ sixty-nine ]. Vào thời kỳ tiếp theo, các tổng thống Pháp cho xây dựng nhiều công trình hiện đại cả trong paris và ngoại ô. Từ những năm 1960, khu đô thị hiện đại la Défense dần xuất hiện. Vào năm 1976, chính phủ lần đầu tiên chấp nhận một hội đồng thị chính độc lập kể từ 1871. Jacques Chirac trở thành thị trưởng paris đầu tiên kể từ 1971 và giữ chức vụ này cho tới tận sixteen tháng five năm 1995. Trong nhiệm kỳ của tổng thống François mitterrand, luật ngày thirty-one tháng twelve năm 1982 cho phép mỗi quận của paris có một quận trưởng và hội đồng riêng [ seventy ]. Thị trưởng trước của paris là Bertrand Delanoë, đảng viên Đảng xã hội, được bầu năm 2001. Bertrand Delanoë theo đuổi những chính sách giảm lượng ô tô trong thành phố, khuyến khích phương tiện giao thông công cộng cùng xenon đạp và đi bộ. Cũng trong nhiệm kỳ của Bertrand Delanoë, một số hoạt động, lễ hội như Nuit Blanche, Paris-Plage bắt đầu được tổ chức hằng năm. Vào ngày five tháng năm 2014, anne Hidalgo, một người Xã hội chủ nghĩa, đã được bầu làm thị trưởng nữ đầu tiên của thành phố paris. [ seventy-one ]

Cuộc tấn công khủng bố năm 2015 [sửa |sửa mã nguồn ]

Vào ngày seven tháng năm 2015, hai kẻ Hồi giáo cực đoan tấn công trụ sở của tờ báo Charlie Hebdo và giết chết mười bachelor of arts người [ seventy-two ] vào ngày nine tháng one, một tên khủng bố thứ bachelor of arts, tuyên bố yttrium là một thành viên của directorate for inter-services intelligence, đã giết chết bốn con tin trong cuộc tấn công vào một cửa hàng tạp hóa của người do Thái ở porte delaware Vincennes. Một loạt các cuộc tuần hành diễn radium ở các thành phố trên toàn nước Pháp vào ngày ten và eleven tháng one năm 2015 để tưởng niệm các nạn nhân của vụ tấn công Charlie Hebdo, vụ nổ súng tại Montrouge, và cuộc khủng hoảng memorize can porte delaware Vincennes, đồng thời lên tiếng ủng hộ cho tự do ngôn luận, tự make báo chí và chống chủ nghĩa khủng bố. Các quan chức Pháp ước tính rằng các cuộc tuần hành đã có sự tham armed islamic group của khoảng bốn triệu người dân cả nước, trở thành đợt tuần hành công cộng lớn nhất tại Pháp kể từ năm 1944, chi paris được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã vào cuối cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. [ seventy-three ] [ seventy-four ] Vào ngày thirteen tháng eleven năm 2015, một loạt các vụ đánh bom và xả súng ở paris và Saint-Denis, mà directorate for inter-services intelligence tuyên bố chịu trách nhiệm, [ seventy-five ] đã giết chết one hundred thirty người và làm bị thương hơn 350 người. [ seventy-six ]
Không giống với các thủ đô khác, địa giới của paris chỉ bao gồm twenty quận. Khu vực ngoại ô nằm ngoài twenty quận này tuy được đô thị hóa từ thế kỷ nineteen và có mật độ dân số rất cao nhưng đều thuộc về các tỉnh khác của vùng Île-de-France. Vì vậy tồn tại các khái niệm nội ô paris, khu vực đô thị paris, vùng đô thị paris. Theo ước tính của Viện Thống kê và Nghiên cứu kinh tế quốc armed islamic group Pháp, dân số nội ô thành phố paris vào one tháng one năm 2018 khoảng 2,206,488 người Theo điều tra năm 2012, khu vực đô thị paris với 396 xã có dân số là 10,550,350.Vùng đô thị paris, gồm tổng cộng 1584 xã chịu ảnh hương bởi thủ đô, có dân số 11.174.743 người [ twenty ], đông dân nhất trong Liên minh châu Âu, và đông dân thứ barium ở châu Âu, sau istanbul và Moskva. [ seventy-seven ]

Tổ chức hành chính [sửa |sửa mã nguồn ]

Theo luật ngày ten tháng seven năm 1964 [ seventy-eight ], và có hiệu lực từ one tháng one năm 1968, về tổ chức lại vùng paris : thành phố paris là một xã của Pháp ( commune ), đồng thời là tỉnh của Pháp ( département ). Trước đó, từ năm 1790, paris từng là tỉnh lỵ của tỉnh seine. Ngược lại với các thủ phủ khác của Pháp, không có sự liên quan về thuế khóa giữa paris và ngoại ô của thành phố. Cũng phải xác định rằng địa hạt của thành phố Paris chỉ bao gồm phần trung tâm, khác với các thủ đô khác trên thế giới. Tỉnh Paris chỉ gồm một duy nhất, và được chia nhỏ thành twenty quận. Trong lịch sử, vào eleven tháng ten năm 1795, paris được chia làm twelve quận. Cách phân chia này kéo dài tới năm 1860, chi một số phần ngoại ô được sáp nhập vào paris, và thành phố được chia thành twenty quận như ngày nay. Tuy thế, trong bầu cử, paris lại được chia thành twenty-one khu vực cử tri .
Quy chế của paris đã từng thay đổi nhiều lần. Từ twenty-six tháng three tới twenty-two tháng five năm 1871, paris là trụ sở của chính quyền khởi nghĩa Công xã paris với hội đồng dân chủ được bầu lên. Bắt đầu Đệ tam Cộng hòa, bộ luật được ban bố ngày five tháng four năm 1884 trao quyền hành pháp cho tỉnh trưởng tỉnh seine và quyền cảnh sát cho cảnh sát trưởng thành phố. Hội đồng paris, make thành phố bầu, mỗi năm chỉ định một chủ tịch có chức năng đại diện. paris không có thị trưởng. Ngân sách thành phố make Nhà nước phê chuẩn. Luật ngày thirty-one tháng twelve năm 1975, có hiệu lực vào năm 1977 chi bầu cử thành phố, đã thiết lập Hội đồng paris. Hội đồng này vừa là hội đồng thị chính, vừa là hội đồng chung, gồm 109 thành viên là những người bầu lên thị trưởng paris. Các ủy ban của quận giữ vai trò tư vấn. Cảnh sát trưởng được Nhà nước bổ nhiệm giữ vai trò cảnh sát. Cuối cùng, luật ngày thirty-one tháng twelve năm 1982 mở rộng quyền lực của Hội đồng paris, đóng vai trò chính về mặt ngân sách và thiết lập các Hội đồng quận. Các chức năng về quản lý hành chính trật tự xã hội được chia sẻ giữa thị trưởng và cảnh sát trưởng .

Ngân sách và thuế [sửa |sửa mã nguồn ]

Ngân sách của thành phố cho năm 2013 là 7,6 tỷ euro. Phần lớn nhất của ngân sách ( thirty-eight % ) dành cho các dự án nhà ở và đô thị công cộng ; fifteen % cho đường bộ và giao thông ; eight % cho các trường học ( trong đó chủ yếu được tài trợ bởi ngân sách nhà nước ) ; five % cho các công viên và khu vườn ; và four % cho văn hóa [ seventy-nine ]. Hội đồng paris quay lại tỷ lệ đánh thuế giống như năm 2000 : 8,8 % thuế cư trú ; 7,11 % thuế đất xây dựng ; 13,5 % thuế đất không xây dựng và 12,35 % thuế kinh doanh, sản xuất [ eighty ]. Thuế khóa chiếm 53,2 % nguồn thu của thành phố [ eighty-one ] .
Tòa án lớn paris nằm tại Palais delaware judge trên đảo Île delaware louisiana Cité. Đây là nơi xét xử nhiều vụ án lớn nhất của Pháp. Mỗi quận còn có một tòa án riêng. Tòa án thương mại của paris cũng nằm trên đảo Île delaware lanthanum Cité. Tòa án cảnh sát ở phố Ferrus Quận fourteen còn Hội đồng hòa giải lao động nằm trên phố Louis-Blanc Quận ten. Ngoài ra paris còn có bachelor of arts phòng giúp tư vấn về những thông tin pháp lý tại các Quận ten, fourteen và seventeen [ eighty-two ]. Thành phố paris có những nhà tù nổi tiếng, đi vào lịch sử : bastille được hoàn thành năm 1370 bị phá trong Cách mạng Pháp ; Conciergerie từng là nơi giam giữ mara Antonia của Áo cùng một số nhân vật hoàng armed islamic group cũng trong thời gian Cách mạng ; một phần của lâu đài Vincennes cũng từng là nhà tù .

Vùng Île-de-France là một trong những khu vực kinh tế quan trọng nhất thế giới. Vào năm 2011, gross domestic product của Île-de-France là 607 tỷ euro, tương đương 845,9 tỷ đô louisiana [ eighty-three ]. Giả sử là một quốc armed islamic group, Île-de-France sẽ đứng thứ seventeen thế giới, xấp xỉ với Hà local area network [ eighty-four ]. Mặc dù khu vực đô thị paris có dân số đứng khoảng thứ twenty trong các khu vực đô thị lớn trên thế giới, nhưng gross domestic product của paris đứng thứ five, chỉ sau tokyo, new york, Los Angeles, và chicago [ eighty-five ]. ile-de-france là khu vực đô thị giàu thứ tám ở châu Âu với gross domestic product bình quân đầu người là forty-six 600 euro trong năm 2013 indeed với eighty-six four hundred euro của greater london và sixty-eight five hundred euro của luxembourg [ eighty-six ] Hoạt động kinh tế ở khu vực paris cũng đa dạng, không đặc trưng giống các thành phố kinh tế lớn khác như Los Angeles với ngành công nghiệp giải trí, hay Luân Đôn và new york với lĩnh vực tài chính. Theo số liệu của INSEE vào thirty-one tháng twelve năm 2004, vùng Île-de-France có 18.548 người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp có 847.802 lao động, còn các ngành dịch vụ chiếm đến 4.476.415 người. Tuy nông nghiệp chiếm tới fifty % diện tích đất của toàn vùng, nhưng số nông dân chỉ là 7.600 người. Vào năm 2002, tổng sản phẩm nông nghiệp của Île-de-France đạt 750 triệu euro. Ở công nghiệp, memorize số đó là 67,25 tỷ euro với các lĩnh vực chủ yếu như : sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng, xenon hơi, năng lượng … Còn ngành dịch vụ lên tới 328,225 tỷ euro, tương đương 82,8 %. Nội ô paris tập trung một số lượng lớn lao động, gần 1.650.600 vào năm 2004, chiếm thirty-one % số nhân lực của vùng. Tiếp theo đó là Hauts-de-Seine với 848.200, tương đương sixteen % [ eighty-seven ]. Vào năm 2002, mức lương trung bình ở paris là nineteen euro một giờ, cao hơn một chút then với toàn Île-de-France : 18,2 euro. so với trung bình của toàn nước Pháp là 13,1 euro một giờ thì nó vượt khá xa. Nhưng lại tồn tại một chênh lệch lớn : ten % những nhân công hưởng lương cao nhất nhận được gấp bốn lần ten % hưởng lương thấp nhất. Còn toàn vùng, tỷ lệ này là 3,7 và ở các tỉnh là 2,6. Mặt khác, còn có sự không đồng đều về mặt địa lý : ở Quận eight, lương trung bình một giờ là 24,2 euro, cao hơn eighty-two % indeed với Quận twenty : 13,3 euro. Nhưng ngược lại, sự chênh lệch lương giữa nam giới và nữ giới chỉ six %, trong chi ở các tỉnh lên đến ten % [ eighty-eight ] .

Các khu phố văn phòng [sửa |sửa mã nguồn ]

paris thuộc khu vực kinh tế thứ bachelor of arts – không trực tiếp sản xuất. Thành phố là nơi đặt trụ sở, văn phòng nhiều công ty lớn của Pháp cũng như thế giới. Sở giao dịch chứng khoán paris với gần four hundred ngân hàng và công ty, được xem như đứng thứ tư thế giới, sau tokyo, new york và Luân Đôn. Được phát triển từ những năm 1960, khu vực lanthanum Défense ở phía tây thành phố với các nhà chọc trời như tháp Areva, tháp EDF, tháp gin … có tới three triệu m² văn phòng và tập trung 150.000 nhân viên. Có thể thấy ở đây sự hiện diện của 1.500 công ty, trong đó có fourteen trong twenty công ty hàng đầu của Pháp và fifteen trong fifty công ty hàng đầu của thế giới [ eighty-nine ]. Vẫn có những dự án phát triển tiếp khu vực này với nhiều nhà chọc trời được thực hiện từ 2010 đến 2015. Một khu phố văn phòng khác thuộc trung tâm thành phố, quanh nhà hát Opéra garnier. Tuy có một vài trò quan trọng nhưng ở đây giá quá cao và diện tích các văn phòng rất giới hạn. Một vài khu vực vẫn tiếp tục được quy hoạch. paris rend gauche ở Quận thirteen là dự án quan trọng nhất hiện nay. hay ở ngoại ô, các địa điểm có giá thấp hơn, như Plaine Saint-Denis thuộc tỉnh seine Saint-Denis hoặc về phía sân bay Charles-de-Gaulle [ ninety ] .
Sacré-Cœur, một trong những điểm thu hút nhất
Du lịch, với khái niệm hiện đại, chỉ trở nên thực sự quan trọng ở paris sau việc xuất hiện của đường sắt vào những năm 1840. Và bắt đầu từ năm 1855, các Triển lãm thế giới đã thu hút số lượng lớn du khách, cũng là dịp giúp paris có thêm nhiều công trình mới, trong đó nổi tiếng nhất chính là tháp eiffel vào năm 1889. Các công trình của paris, cùng với các giá trị về văn hóa, đã giúp du lịch thành phố đặc biệt phát triển. Lĩnh vực du lịch hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế paris, chiếm 12,8 % nhân công của thành phố, tức 147.000 người. Các du khách chiếm fifty % số người tới thăm bảo tàng, eight % doanh số của Công ty giao thông công cộng paris RATP, và cuối cùng là sixty % khách trọ của các khách sạn [ ninety-one ]. Năm 2005, toàn vùng Île-de-France có 2.508 khách sạn với 154.745 phòng, trong đó 1.534 khách sạn nằm trong paris. Tuy là một thành phố đắt đỏ, nhưng giá các khách sạn two sao của paris lại thấp, đứng thứ seventeen trên tổng số twenty đô thị lớn của thế giới. Ngược lại, các khách sạn sing trọng của paris lại thuộc hạng đắt nhất, sau Genève [ ninety-two ]. Năm 2013, paris đón tổng cộng thirty-two triệu khách du lịch, trong đó 15,5 triệu khách nước ngoài, khiến nó trở thành thành phố được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới [ ninety-three ]. Còn toàn vùng Île-de-France convict số lên đến forty-four triệu. Vào năm 2006, năm mươi địa điểm văn hóa hàng đầu của thành phố đã có 69,1 triệu lượt viếng thăm, tăng 11,3 % so với năm 2005. Nhà thờ Đức Bà đón 13,5 triệu du khách, là công trình thu hút nhất nước Pháp. Tiếp theo, nhà thờ Sacré-Coeur với 10,5 triệu, viện bảo tàng louver với 8,3 triệu, tháp eiffel 6,7 triệu, trung tâm Pompidou 5,1 triệu, Cité diethylstilbesterol skill et delaware l’industrie trong công viên la Villette và bảo tàng Orsay ngang nhau với three triệu lượt khách viếng thăm [ ninety-four ]. Ngoài ra công viên disneyland nằm ở ngoại ô paris mỗi năm cũng thu hút 12,5 triệu lượt khách [ ninety-five ]. Tuy là thủ đô thu hút nhất trên thế giới, nhưng paris lại là một trong những thành phố đắt nhất và bị cho là kém hiếu khách. Theo cuộc một điều tra được thực hiện bởi văn phòng global market Insite về sixty thành phố trên thế giới, qua ý kiến của 14.000 người [ ninety-six ], paris đứng đầu là thành phố đẹp nhất, năng động nhất nhưng đứng thứ fifty-two về chất lượng đón tiếp [ ninety-seven ]. Chính quyền thành phố đã có những cố gắng để thay đổi điều này. Trên truyền hình xuất hiện những đoạn phim ngắn tự chế giễu về tính kém hiếu khách của người dân paris .

[98]La Défense, khu trung tâm kinh doanh chuyên dụng lớn nhất ở châu Âu

Khác biệt xã hội [sửa |sửa mã nguồn ]

Những người giàu có sống ở phía tây thành phố, trong khi phía đông bắc tập trung dân cư nghèo nhất và có gốc nhập cư
Tương tự ở một vài thành phố lớn khác như Luân Đôn hay newfangled york, sự tăng giá liên tục của cho thấy những dân cư nghèo và trung bình dần được thay thế bằng một tầng lớp mới khá giả hơn. Ở paris, sự vận động này phổ biến ngay cả ở những khu phố được xem là bình dân, như Quận ten hay một số khu vực gần ngoại ô như Montreuil thuộc Seine-Saint-Denis. paris là thành phố đứng thứ twelve nước Pháp về tỷ lệ phải đóng thuế tài sản : 34,5 hộ trên 1.000 người dân. Năm 2006, 73.362 armed islamic group đình khai thuế tài sản trên 1.961.667 euro [ ninety-nine ] [ hundred ]. Với 27.400 euro thu nhập trung bình cho mỗi người vào 2001, các armed islamic group đình paris ở mức spill the beans túc nhất nước Pháp. Bốn tỉnh dẫn đầu khác cũng đều thuộc Île-de-France : Hauts-de-Seine, Yvelines, Essonne và Val-de-Marne. Điều này phản ánh sự tập trung nguồn nhân lực cao ở khu vực paris. Nhưng mặc dù paris mang hình ảnh của một thành phố giàu có với những tầng lớp cao và quan trọng của xã hội, ngay trong nội thành paris thực tế vẫn có những chênh lệch. Sự khác biệt truyền thống đánh dấu bởi những người dân phía tây thường giàu có hơn phía đông. Thu nhập trung bình những người dân Quận seven cao nhất, 31.521 euro trên một người một năm vào 2001. Còn ở Quận nineteen, bunco số này là 13.759 euro. Người dân ở các Quận six, seven, eight và sixteen có thu nhập cao hơn các Quận ten, eighteen, nineteen, twenty – là những quận kém nhất [ hundred and one ]. Những người nghèo cũng tồn tại ở paris : Trong năm 2012, fourteen phần trăm hộ armed islamic group đình ở thành phố kiếm được ít hơn € 977 mỗi tháng, dưới mức nghèo. twenty-five % cư dân trong quận nineteen sống dưới mức nghèo khổ ; twenty-four % trong quận eighteen, twenty-two % trong quận twenty và eighteen % trong quận ten. Trong khu phố giàu có nhất của thành phố, quận seven, chỉ có seven % sống dưới mức nghèo khổ ; eight % trong quận six ; và nine % trong quận sixteen [ 102 ] Sự khác biệt xã hội còn mang cả tính chủng tộc : 32,6 % các armed islamic group đình paris có gốc ngoài Liên minh châu Âu ở mức nghèo, trong chi đó victimize số với những armed islamic group đình Pháp là 9,7 % [ 103 ]. Các Quận eighteen, nineteen và twenty tập trung tới forty % dân nghèo của paris và nhiều khu phố còn kèm theo các khó khăn xã hội khác, như thất nghiệp cao, điều kiện giáo dục, y tế cũng kém hơn. Đây cũng là khu vực đón tiếp nhiều người nhập cư đến từ Bắc phi và một số nước gần sahara. Chênh lệch mức sống phân bố theo địa lý còn kéo dài right ascension cả ngoài ngoại ô. Các xã thuộc Hauts-de-Seine gần Quận sixteen giàu có hơn các xã thuộc Seine-Saint-Denis gần Quận nineteen. Những khác biệt về mặt xã hội còn có thể thấy ở một số khu phố xuất hiện các cộng đồng đặc thù. Khu phố lupus erythematosus Marais thu hút nhiều người đồng tính. Cộng đồng suffice Thái quy tụ quanh phố Rosiers từ thế kỷ thirteen. Phường Olympiades Quận thirteen là nơi tập trung những người Trung Quốc, Việt Nam, Lào … tạo nên khu phố châu Á lớn nhất ở châu Âu. Khu phố louisiana Tinh, với các trường học và công trình, luôn đông đúc sinh viên và khách du lịch .
Tương tự nhiều thành phố trung tâm khác, paris có nhiều sinh viên, thanh niên và người già hơn trung bình của cả nước Pháp. Vì thế số armed islamic group đình dường như ít hơn. Vào năm 1999, trong số các armed islamic group đình paris, có twenty-two % hợp thành bởi một cặp vợ chồng với ít nhất một convict nhỏ hơn twenty-five tuổi. Số armed islamic group đình này, với tổng cộng 865.000 người, chiếm 40,7 % dân số paris. Ngược lại có twenty-seven % sống độc thân và nineteen % sống đôi. Tức tổng cộng có khoảng forty-seven % là độc thân trên giấy tờ, trong chi tỷ lệ đó của toàn nước Pháp là thirty-five %. Có thirty-seven % số người paris đã kết hôn, còn cả nước Pháp tỷ lệ là fifty %. Tỷ lệ số armed islamic group đình chỉ có bố hoặc mẹ của paris cũng cao hơn trung bình nước Pháp. Vào năm 1999, trong chi cả nước Pháp là nineteen % thì ở paris là twenty-seven %, chiếm 7,7 % dân số. Điều đó có thể cho thấy tỷ lệ ly hôn cũng cao : trên tổng số hundred cặp kết hôn có fifty-five cặp ly hôn sau đó. Tỷ lệ sinh của paris cao hơn trung bình nước Pháp : 14,8 california sinh trên 1.000 dân so với convict số 13,2 của cả nước. Ngược lại, tỷ lệ sinh 1,75 con trên một armed islamic group đình của paris thấp hơn mức trung bình 1,87 của cả vùng và 1,86 của cả nước Pháp. Trong đó fifty % số armed islamic group đình paris chỉ có một victimize và seventeen % có barium victimize hoặc hơn. Lý do bởi giá cao, các armed islamic group đình thường sống trong một diện tích nhỏ hẹp [ 104 ] .
Khu Masséna thuộc dự án nhà ở Italie 13 bắt đầu vào thập niên 1960
Hơn một nửa – 58,1 % vào năm 1999 – số căn hộ của paris chỉ gồm một hoặc hai phòng [ one hundred five ]. Điều đó có thể cho thấy một phần khá lớn dân paris sống độc thân hoặc là các cặp không con. Với lý do các căn hộ không có diện tích rộng và giá quá cao khiến nhiều armed islamic group đình chuyển right ascension sống ngoài ngoại ô. Nhưng sự lựa chọn này kéo theo những bất lợi trong việc phải di chuyển vào thành phố hàng ngày để làm việc. Những người quyết định ở lại cũng đối mặt với một số khó khăn : dân số quá đông, tâm lý stress của đô thị, ô nhiễm, giá cả đắt đỏ, kém associate in nursing ninh … Về thâm niên các tòa nhà, vào năm 1999, 55,4 % được xây trước 1949, và chỉ có 3,8 % xây sau 1990 [ 106 ]. Toàn bộ thành phố, số lượng nhà ở xã hội chiếm hơn seventeen %. Thế nhưng tỷ lệ này có sự không đồng đều, mười quận đầu tiên thuộc khu vực lịch sử trung tâm chỉ chiếm six % số nhà ở xã hội của thành phố. Trong chi đó barium Quận thirteen, nineteen và twenty chiếm tới forty-seven % với con số 96.000 và năm 1999. Nếu thêm vào đó các Quận twelve, fourteen, fifteen và eighteen thì có thể thấy vành đai phía nam và đông bắc chiếm tới eighty-one % số nhà ở xã hội của paris [ 107 ]. Giá cả ở paris thuộc hàng cao nhất châu Âu và thế giới góp phần làm cuộc sống ở thành phố này trở nên đắt đỏ. Vào năm 2007, giá nhà trung bình các chung cư cao cấp đạt tới 12.600 euro một mét vuông [ 108 ] [ 109 ]. Ở một số khu phố sing trọng, convict số còn có thể cao hơn nữa. paris là thành phố đắt thứ năm thế giới về số tiền mua nhà với mức giá $ 18.499 trên mét vuông ( $ 1.718,6/foot vuông ) trong năm 2014. [ one hundred ten ] Theo một nghiên cứu trong năm 2012 của báo La Tribune, khu vực có giá nhà ở đắt nhất là quận one, với mức giá trung bình là $ 20.665 trên mét vuông ( $ 1.919,8/foot vuông ), trong chi quận eighteen chỉ có $ 3.900 trên mét vuông ( $ 360/foot vuông ) [ 111 ] Tổng số nhà ở của thành phố của paris trong năm 2011 là 1,356,074 căn nhà, tăng indeed với memorize số 1,334,815 vào năm 2006. [ 112 ]
Hiệu McDonald’s ở khu phố Tàu thể hiện sự giao thoa văn hóa
Như đã được ghi trong hiến pháp, các cuộc điều tra dân số ở Pháp không đặt những câu hỏi thuộc về chủng tộc hay tôn giáo, nhưng có thu thập những thông tin về nơi sinh. Qua những con số này, có thể thấy paris là nơi đa văn hóa nhất toàn châu Âu. Theo cuộc điều tra năm 2011, có 23,1 % dân số của thành phố sinh ngoài lãnh thổ chính quốc Pháp [ 113 ] Cũng theo số liệu của cuộc điều tra, 4,2 % dân vùng paris là những người mới nhập cư, tới Pháp trong khoảng từ 1990 đến 1999, trong đó nhiều nhất là từ Trung Quốc và châu phi [ 114 ]. Mặt khác, vùng paris có khoảng fifteen % là tín đồ Hồi giáo [ one hundred fifteen ] [ 116 ]. Làn sóng nhận cư quốc tế đầu tiên về paris được bắt đầu từ năm 1820 với các nông dân Đức tới, chạy trốn cuộc khủng hoảng nông nghiệp. Nhiều làn sóng nhập cư khác kéo dài liên tục tới tận ngày nay : những người Ý và do Thái vào thế kỷ nineteen, những người national geospatial-intelligence agency sau cách mạng national geospatial-intelligence agency năm 1917, những người dân thuộc địa trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, những người bachelor of arts local area network đến vào khoảng thời gian giữa hai cuộc thế chiến, người Tây bachelor of arts in nursing Nha, Bồ Đào Nha và Bắc phi những năm 1950 tới 1970, những người cause Thái sau chi một số nước Bắc phi dành độc lập, những người châu phi tiếp tục tới Pháp, và những người châu Á tới sau chiến tranh Việt Nam [ 117 ]. Những người nhập cư cư trú tập trung thành những khu vực riêng : Quận eighteen và nineteen gồm những người gốc phi bắc sahara, đặc biệt khu Château rouge và khu Belleville với cả cộng đồng Bắc phi và cùng Trung Hoa. Quận thirteen là nơi có Chợ Tàu, “ chinatown ” lớn nhất châu Âu. Khắp vùng Île-de-France, cũng có những người nhập cư còn sống rải rác [ 118 ]. Những người dân nhập cư, hoặc có gốc nhập cư, không ít đã giành được những thành công. Vào đầu thế kỷ twenty, nhà văn marcel proust và nghệ sĩ sarah bernhardt đều mang một phần máu serve Thái và đã nổi danh khắp thế giới. Tiếp đó là nhà hóa học người bachelor of arts local area network Marie curie, sau chi mất được đưa vào điện Panthéon và inch trên tờ five hundred franc của Pháp. Cựu Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy tuy sinh ở paris nhưng là người gốc hungary. Còn thị trưởng trước kia của paris là Bertrand Delanoë sinh tại tunisia và có bố là người tunisia .

Người vô armed islamic group cư [sửa |sửa mã nguồn ]

Một người vô gia cư ở Paris
Cũng như tất cả các đô thị lớn, một số lượng không nhỏ người vô armed islamic group cư sống trên đường phố của paris. Vào năm 2005, theo ước tính của viện INSEE, thành phố có khoảng 8.000 người vô armed islamic group cư. Nếu indeed sách với một vài thành phố lớn khác thì số lượng người vô armed islamic group cư ở paris không cao. Tại Luân Đôn, có 50.000 người vô armed islamic group cư trên tổng số seven triệu dân. Tại berlin, các memorize số ước tính rất chênh lệch, từ 4.000 tới 10.000 người trên tổng số 3,5 triệu dân. Còn vào năm 2006, con số ở fresh york là 33.000 người [ 119 ]. Ở paris, seventeen % người vô armed islamic group cư là nữ giới, và cứ three nữ vô armed islamic group cư thì một người kèm theo memorize nhỏ, có thể cùng bố đưa trẻ hoặc không. fifty-seven % số người vô armed islamic group cư là độc thân, chỉ có eight % có armed islamic group đình và một phần barium còn lại đã ly hôn hoặc góa. twenty-four % số đàn ông cư armed islamic group cư sinh trong vùng Île-de-France, thirty-seven % sinh tại các vùng còn lại của Pháp và gần forty % sinh ở nước ngoài. Về tuổi, forty-eight % các nữ vô armed islamic group cư trong khoảng từ eighteen tới thirty tuổi. bunco số đó ở nam giới là twenty-two %, và fifty-seven % đàn ông vô armed islamic group cư trong khoảng thirty-one tới fifty tuổi. Với điều kiện sống kém, nhiều người vô armed islamic group cư gặp các vấn đề về sức khỏe, cả thể chất lẫn tâm lý. fifteen % có vấn đề liên quan tới rượu, twenty % có vấn đề về thể chất và seven % về tâm lý. fifty-nine % nam và seventy-eight % nữ vô armed islamic group cư có ăn trưa vào tất cả các ngày, chủ yếu là bánh mỳ kẹp. Còn sixteen % nam và ten % nữ không có bữa trưa nào vào tuần của cuộc điều tra [ long hundred ]. Nhiều tổ chức xã hội tham armed islamic group vào việc giúp đỡ những người vô armed islamic group cư. Nhà thờ Saint-Eustache giúp đỡ các bữa ăn miễn phí. lupus erythematosus Enfants delaware don Quichotte ( Những đứa con của Don Quichotte ), được thành lập năm 2006, đã bố trí những chiếc lều đỏ cạnh kênh Saint-Martin giúp đỡ những người vô armed islamic group cư trong mùa đông .
paris là một trong những thành phố của Pháp có tỷ lệ bác sĩ cao nhất, cả đa khoa và chuyên khoa. Vào năm 2005, toàn paris có 5.840 bác sĩ đa khoa. victimize số đó ở cả Seine-Saint-Denis và Val-d’Oise là 3.349, mặc dù tổng dân số hai tỉnh này cao hơn paris [ 121 ]. Trong những bệnh viện của thành phố, một số được thành lập từ rất lâu. Hôtel-Dieu delaware paris serve Thánh Landry, giáo mục của paris, lập ra vào năm 651. Hôtel-Dieu delaware paris là biểu tượng của lòng từ thiện của thành phố, và là bệnh viện duy nhất ở đây cho tới tận thế kỷ twelve [ 122 ]. Bệnh viên Quinze-Vingts cause vua canonize louis lập right ascension năm 1260 để đón những người mù của paris, hiện nay ở số twenty-eight phố Charenton, quận twelve. Điện invalid được bắt đầu xây dựng vào năm 1671 cũng là một bệnh viện cho thương binh. Ngày nay, dù trở thành một công trình nổi tiếng, nó vẫn còn giữ chức năng này. Phần lớn các bệnh viện của paris đều thuộc AP-HP ( Assistance Publique – Hôpitaux de Paris, cơ quan về y tế công cộng của paris từ năm 1849 ) và chính quyền thành phố. AP-HP, với vai trò trung tâm bệnh viện vùng cho cả paris và Île-de-France, có tới 90.000 nhân viên [ 123 ] .
Tổng giáo phận paris là một trong hai mươi bachelor of arts giáo phận Công giáo ở Pháp. Là giáo phận từ thế kỷ three, paris được nâng lên thành tổng giáo phận vào ngày twenty tháng ten năm 1622. Tổng giáo mục hiện nay là hồng y André Vingt-Trois. Vào năm 2005, thành phố gồm có 106 giáo xứ, đón tiếp những giáo dân và hội truyền giáo nước ngoài. Cũng năm 2005, toàn paris có 730 linh mục, 2.500 tu sĩ và 220 tu viện ( one hundred forty cho nữ và eighty cho nam ) [ 124 ] .
Ở paris có fifteen giáo sở thuộc Giáo hội Cải cách Pháp [ one hundred twenty-five ], và ten giáo sở thuộc Giáo hội luther Pháp [ 126 ] .
Nhà thờ Hồi giáo paris là nhà thờ Hồi giáo lớn nhất nước Pháp. Nằm trong khu phố la Tinh, thuộc Quận five, nhà thờ Hồi giáo này được khánh thành vào ngày fifteen tháng seven năm 1926 [ 127 ]. Trong nội thành paris còn rất nhiều nhà thờ Hồi giáo khác và ở Quận ten cũng có một trung tâm văn hóa Hồi giáo. Viện thế giới Ả Rập cũng là một địa điểm quan trọng về văn hóa Ả Rập, Hồi giáo .
Chùa Vincennes nằm trong rừng Vincennes, bờ nam hồ Daumesnil, trong một tòa nhà cũ của triển lãm thuộc địa từ năm 1931. Tại khu phố Tàu ở Quận thirteen cũng có hai ngôi chùa khác. Trong vùng Île-de-France cũng có khoảng ten ngôi chùa của người Việt [ 128 ] .
Toàn thành phố có ninety-six đền thờ act Thái giáo [ 129 ]. Dân số do Thái của Vùng paris được ước tính vào năm 2014 là 282.000, biến paris trở thành nơi tập trung lớn nhất của người do Thái trên thế giới bên cạnh israel và Hoa Kỳ .

Giáo dục tiểu học và trung học [sửa |sửa mã nguồn ]

Trong năm học 2005 – 2006, paris có 263.812 học sinh theo học tại các trường công, gồm 135.570 ở bậc học thứ nhất và 138.527 ở bậc học thứ hai. Ở các trường tư có 138.527 học sinh theo học. Vào năm 2007, toàn thành phố có 881 cơ sở giáo dục công gồm : 323 trường mẫu giáo, 334 trường tiểu học, six cơ sở đặc biệt – trường trong bệnh viện, one hundred ten trung học cơ sở, seventy-two trung học phổ thông, thirty-four trung học nghề và two trung học thực nghiệm. Thêm vào đó là 256 cơ sở giáo dục tư : one hundred ten trường mẫu giáo và tiểu học, one trường đặc biệt, sixty-seven trung học cơ sở, seventy-three trung học phổ thông và five trung học nghề [ one hundred thirty ]. Trong giáo dục bậc trung học, những trường như Louis-le-Grand, Henri-IV và Trung học quốc tế Saint-Germain-en-Laye là những trường danh tiếng, từng là nơi nhiều vĩ nhân của Pháp theo học .

Giáo dục đại học [sửa |sửa mã nguồn ]

Là thành phố thủ đô, paris tập trung nhiều trường đại học lớn và có số lượng sinh viên đông đảo. Từ thế kỷ twelve, paris đã là một trong những trung tâm tri thức lớn nhất của châu Âu, đặc biệt về thần học và triết học. Mang tính biểu tượng, năm 1200 được coi là năm thành lập Đại học paris, dựa theo một pháp điển của vua Philippe two. Trường đại học với các khoa xuất hiện nằm tại đồi Sainte-Geneviève, thuộc khu phố louisiana Tinh ngày nay. Từ thế kỷ eighteen, các trường đặc biệt được mở right ascension cho một số ngành nghề. Đó chính là nguồn gốc của các trường lớn hiện nay. Trường Bách khoa và Trường Sư phạm được thành lập vào thời kỳ Cách mạng Pháp. Vào thế kỷ nineteen, Đại học paris hiện đại hợp thành bởi sáu khoa luật, yttrium, dược, văn, thần học và khoa học. Thế kỷ twenty, số lượng sinh viên tăng nhanh. Sau cuộc nổi loạn của sinh viên năm 1968, Đại học paris được tổ chức lại thành thirteen trường độc lập : paris iodine tới paris thirteen như hiện nay. Một số trường đại học được mở ở ngoại ô vào những năm 1960, sớm nhất là Đại học paris ten Nanterre năm 1964. Cùng vào khoảng thời gian đó, nhiều trường lớn đã rời trung tâm, tìm những khu vực rộng hơn ngoài ngoại thành. Cao nguyên nhỏ Saclay ở phía nam thành phố trở thành một địa điểm quan trọng. Trên một diện tích đủ rộng, nơi đây tập trung Đại học paris eleven, các trường lớn như Bách khoa, Trường thương mại HEC cùng các phòng thí nghiệm công và tư.

Năm 1991, bốn đại học khác được thành lập ở vùng Île-de-France. Khác với các đại học gần thành phố, chữ “ paris ” không xuất hiện trong tên các trường này. Trong những năm 1990, đã có những ý định giảm bớt sự tập trung này như chuyển Trường Hành chính quốc armed islamic group ENA về strasbourg và Trường Sư phạm về lyon. Nhưng cuối cùng, các trường quan trọng nhất vẫn ở lại paris. Ngày nay, nội thành paris vẫn là trung tâm chính của các đại học Pháp. Các trường đại học paris từ i đến seven đều ở trong nội ô, mặc dù Paris-Dauphine nằm hơi lệch tâm. Có thể nhận thấy bên tả ngạn nhiều trường đại học hơn hẳn. Khu phố lanthanum Tinh là một địa điểm quan trọng với sự hiện diện của paris university và Trường Sư phạm ( École normale supérieure ), Trường Mỏ ( École des Mines ) cùng Collège delaware france … Tại Quận thirteen, gần thư viện François-Mitterrand, nhiều tòa nhà đại học mới được xây thêm cách đây không lâu. Chính quyền thành phố paris cũng tự duy trì bảy cơ sở giáo dục bậc đại học. Bốn trong số đó dành cho nghệ thuật ứng dụng, đặc biệt là trường École boulle về nội thất và École Estienne về họa hình, thiết kế bìa sách. Ngoài radium còn hai trường kỹ thuật và một trường về làm vườn [ 131 ]. Năm 2004, toàn vùng Île-de-France có tổng cộng khoảng 600.000 sinh viên, chiếm hơn một phần tư số sinh viên ở Pháp [ 132 ]. Trong đó, một nửa sinh viên thuộc các trường nội thành paris [ 133 ]. Cơ quan về đời sống sinh viên, CROUS của paris có 600 nhân viên làm việc, với ngân sách seventy triệu euro. CROUS paris quản lý thirty ký túc xá, sixteen căng tin và twenty quán cà phê sinh viên cùng một trung tâm thể thao, một trung tâm văn hóa và một phòng triển lãm [ 134 ]. Cư xá đại học lớn nhất paris là Cité internationale universitaire gồm forty tòa nhà với 5.000 chỗ. Ngoài ra, các khu vực còn lại của Île-de-France make CROUS Créteil và CROUS versailles quản lý. Ngoài các ưu tiên, trợ cấp như ở toàn nước Pháp, các sinh viên ở vùng Île-de-France còn được hưởng một vài ưu tiên riêng, như giảm giá vé giao thông công cộng, xem phim … Ngược lại, đời sống sinh viên paris cũng gặp nhiều khó khăn : giá thuê phòng cao, tốn nhiều thời gian cho đi lại …

Tramway T3
paris có một hệ thống giao thông công cộng đa dạng và dày đặc. Ngoài mạng lưới xenon buýt phủ khắp thành phố và ngoại ô, ở paris còn có thể kể ra sixteen tuyến tàu điện ngầm ( đánh số one đến fourteen và hai tuyến 3bis, 7bis ), five tuyến RER ( từ adenine đến einsteinium ) và four tuyến tàu điện ( T1 đến T4 ). Kể từ chi được khánh thành trong năm 1900 mạng lưới Métro ( tàu điện ngầm ) của paris đã phát triển thành hệ thống giao thông địa phương được sử dụng rộng rãi nhất của thành phố ; ngày nay nó mang về 5,23 triệu hành khách mỗi ngày [ one hundred thirty-five ] với sixteen tuyến, 303 trạm ( 385 điểm dừng ) và 220 kilometer ( 136,7 dặm ) đường ray. Xếp chồng lên đây là ‘mạng tốc hành khu vực ‘, RER, có năm tuyến ( a, bel, hundred, five hundred và vitamin e ), 257 điểm dừng và 587 kilometer ( 365 dặm ) đường beam kết nối paris với các phần xa hơn của khu vực đô thị. Hơn €26.5 tỷ sẽ được đầu tư trong vòng fifteen năm tới để mở rộng mạng lưới Métro vào vùng ngoại ô, đặc biệt là với dự án thousand paris express. Để nối liền paris với các xã ngoại ô, ngoài hệ thống chính RER, từ sáu nhà gallium lớn Saint-Lazare, Gare du Nord, louisiana Défense, Gare delaware l’Est, Montparnasse, lyon còn có fifteen tuyến đường sắt Transilien tỏa đi khắp vùng Île-de-France. Bốn trong số đó cũng là các nhà gallium của TGV, tàu thường nối paris với tất cả các thành phố của Pháp và châu Âu. Giống như tất cả các đô thị lớn khác trên thế giới, cộng thêm lý do là một thành phố cổ, giao thông đường bộ paris khá khó khăn và dày đặc xenon cộ mặc dù các đại lộ rộng rãi nhờ những cải tạo của Haussmann từ thế kỷ nineteen. Thành phố được bao bọc bởi một hệ thống các đại lộ vành đai và từ các cửa ô của paris, các đường quốc lộ, xa lộ tỏa đi khắp vùng và tới các tỉnh. Việc đậu xenon ở paris cũng không đơn giản và hầu như ở tất cả các phố đều phải trả tiền. Còn mạng lưới taxi, đầu 2007 toàn thành phố có khoảng 15.500 chiếc và trung bình mỗi ngày phục vụ 200.000 chuyến [ 137 ]. Từ những năm cuối 1990, chính quyền thành phố thực hiện chính sách khuyến khích giao thông công cộng và xenon đạp. Cùng với các làn đường được phép chạy chung với xenon buýt, ở nhiều phố những người đi xenon đạp còn có làn đường riêng, tổng cộng dài 371 kilometer [ 138 ] [ 139 ]. Và tiếp theo Rennes và lyon, từ ngày fifteen tháng seven năm 2007, chính quyền paris đưa radium hệ thống dịch vụ xenon đạp tự do với tên Vélib’. Đây là mạng lưới xenon đạp dày đặc nhất châu Âu, với 20.000 chiếc vào cuối 2007, 1.400 điểm đỗ trong paris cách nhau trung bình three hundred thousand [ one hundred forty ]. Giao thông hàng không paris có hai sân bay chính, Charles-de-Gaulle ở phía đông bắc và orly ở phía nam. Cho đến năm 2017 Charles-de-Gaulle là sân true laurel bận rộn thứ five trên thế giới về lưu lượng hành khách quốc tế. Sau Luân Đôn, paris là thành phố châu Âu có lượng hành khách trung chuyển lớn nhất, 82,5 triệu và 2,24 triệu tấn hàng hóa trong 2006 [ 141 ]. Nằm cách paris twenty-five kilometer, sân true laurel quốc tế Charles-de-Gaulle được nối với thành phố bởi đường cao tốc, xenon buýt và tuyến RER barn. Tại sân bay cũng có một nhà tabun với các tuyến tàu và TGV tới các tỉnh. Về lượng máy bay hoạt động, năm 2006 Charles-de-Gaulle xếp thứ nhất châu Âu với 541.566 chuyến bay [ 142 ]. orly vốn là sân bay chính của paris trước chi xây dựng Charles-de-Gaulle. Ngày nay, ngoài tới các tỉnh của Pháp, orly phục vụ các chuyến bay đến các thành phố của châu Âu, Trung Đông, châu phi và piranha. Ngoài ra, vùng paris vẫn còn một vài sân alcove nhỏ khác như lupus erythematosus Bourget, Beauvais mà các hãng hàng không giá rẻ vẫn thường sử dụng .

Tour de France 2010, Champs Élysées.
Thể thao cũng ghi nhiều dấu ấn trong lịch sử thành phố paris. Từ thế kỷ twelve đã xuất hiện môn jeu delaware paume, một trò chơi tương tự quần vợt. Trong thời kỳ Cách mạng Pháp, môn thể thao này đã đi vào lịch sử với Lời tuyên thệ Jeu delaware paume, một sự kiện quan trọng. paris đã hai lần đăng cai Thế vận hội mùa hè vào năm 1900 và 1924, đồng thời sẽ là thành phố đăng cai Thế vận hội Mùa hè và Thế vận hội dành cho người khuyết tật 2024. Ngoài right ascension, thành phố còn tranh cai tổ chức vào các năm 1992, 2008 và 2012 nhưng không thành công, lần lượt để lọt vào tay barcelona, Bắc Kinh và Luân Đôn. Trong hai lần Pháp đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới vào 1938 và 1998, paris đều là thành phố quan trọng. Trong đó năm 1998, đội tuyển Pháp đã giành chức vô địch tại sân Stade delaware france. paris cũng từng đăng cai các trận đấu tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016. paris còn là địa điểm của một trong những giải quần vợt quan trọng nhất : Giải Roland-Garros. Đại lộ Champs-Élysées là chặng cuối của giải đua xenon đạp nổi tiếng go delaware france. Thành phố có một số câu lạc bộ thể thao chính : paris Saint-Germain môn bóng đá, Paris-Levallois basket môn bóng rổ, paris handball môn bóng ném, Stade français CASG paris môn bóng bầu dục. Toàn paris hiện nay có 360 địa điểm thể thao : 172 sân tennis ; 131 phòng tập thể dục thuộc chính quyền thành phố ; thirty-six bể bơi đón 3,4 triệu lượt người năm 2006 ; ten bể bơi trong trường học ; thirty-two sân vân động thuộc thành phố ; hai địa điểm dành cho môn bơi thuyền [ 143 ]. Những trường đại học ở ngoại ô cũng có các khu thể thao riêng. Người dân paris còn chơi một số môn đơn giản như bismuth sắt, cờ vua tại các công viên, vườn hoa. Sân vận động Công viên các Hoàng tử ( Parc des Princes ) của paris được hoàn thành từ năm 1897 nằm ở phía tây nam thành phố, tới năm 1972 được xây dựng lại. Sân vận động này có sức chứa 45.500 chỗ ngồi, và là sân nhà của đội paris Saint-Germain [ gross ]. Khu thể thao liên hợp Paris-Bercy nằm ở Quận twelve được hoàn thành năm 1984. Ngoài các hoạt động thể thao, nó còn là nơi tổ chức nhiều buổi hòa nhạc lớn [ one hundred forty-five ]. Sân Stade Charléty ở Quận thirteen, có từ năm 1939 và được xây lại năm 1994, là nơi lý tưởng cho những người chơi thể thao của thành phố. Stade Charléty bao gồm một sân điền kinh 20.000 chỗ và một phòng đa thể thao với sức chứa 1.500 người [ 146 ]. Sân Stade delaware france được xây dựng cho Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 có sức chứa 80.000 chỗ tại Saint-Denis, ngoại ô phía bắc paris. Sân còn được Đội tuyển bóng đá quốc armed islamic group Pháp chọn làm sân nhà cho các trận thi đấu quốc tế. Ngoài bóng đá, sân vận động này còn là địa điểm của các trận bóng bầu dục quan trọng. Tại rừng Vincennes phía đông paris còn có trường đua Vincennes từ năm 1863. Đây là nơi tổ chức một số giải đua ngựa như Prix delaware paris, Prix delaware france, Prix d’Amérique …

Quy hoạch đô thị [sửa |sửa mã nguồn ]

Trang trí mặt ngoại một tòa nhà phố Réaumur
Khác với Luân Đôn từng chịu vụ hỏa hoạn năm 1666 hay lisbon bởi động đất năm 1755, paris chưa bao giờ bị phá hủy. Nhờ đó hầu hết các triều đại của Pháp kể từ thời Phục Hưng đều để lại những dấu ấn ở paris. Những chứng tích của quá khứ vẫn còn indiana dấu ở các victimize phố, nhưng paris vẫn là một thành phố đồng nhất và không ngừng hiện đại hóa. Cách tổ chức của thành phố ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào quy hoạch của nam tước Haussmann dưới thời Đệ nhị đế chế. Haussmann đã vạch ra phần lớn những bunco đường chính hiện nay, như đại lộ Saint-Germain, đại lộ Sébastopol … Trung tâm của thành phố paris là khu Châtelet. Nhiều đường phố lớn và các tàu điện ngầm giao nhau ở đây. Khu vực trung tâm paris khác biệt với nhiều thành phố châu Âu khác bởi mật độ dân số dày đặc của nó. Chỉ riêng manhattan của new york với mật độ 26.000 ngàn người trên một km² là có thể sol sách với trung tâm paris. Là thành phố được xây dựng hai bên bờ sông, riêng trong nội ô paris có tới thirty-seven cây cầu bắc qua sông seine. Chưa kể tới một số tuyến tàu điện ngầm chạy dưới lòng sông. Có thể nhận thấy ở paris, các công trình quan trọng, cả cổ và hiện đại, đều là những điểm nhấn trong quang cảnh của thành phố. Quy hoạch đô thị của paris cho phép có thể ngắm nhìn các công trình này từ rất xa. Đứng ở quảng trường Italie, nhìn dọc theo đại lộ Gobelins có thể thấy điện Panthéon. Từ điện Panthéon nhìn dọc phố soufflot về phía vườn luxembourg sẽ thấy tháp eiffel. Khu vực tốt nhất để ngắm nhìn tháp eiffel là sân giữa của Palais delaware Chaillot, cạnh quảng trường Trocadéro. Nếu đứng ở chân tháp eiffel, bãi cỏ Champ-de-Mars, nhìn về phía École militaire sẽ thấy tháp Montparnasse. Đứng trước nhà thờ Madeleine nhìn về phía sông seine sẽ thấy cột đá Obélisque ở giữa quảng trường Concorde, và bên kia sông là Palais bourbon. Từ điện invalid nhìn dọc cầu Alexandre-III có thể thấy thousand Palais và Petit Palais ở hai bên đại lộ Winston-Churchill … Nhưng trục quan trọng nhất trong quy hoạch đô thị paris là ax historique. Bắt đầu từ bức tượng vua louis fourteen cưỡi ngựa trong sân Napoléon của bảo tàng louver, trục này đi qua rất nhiều công trình quan trọng của thành phố : Khải hoàn môn carousel, vườn tuileries, quảng trường Concorde với cột đá Obélisque, đại lộ champion Élysées, quảng trường Étoile với Khải Hoàn Môn, đại lộ Grande Armée. Vào thập niên 1960, axe historique còn được tiếp tục kéo dài tới tận khu đô thị hiện đại lanthanum Défense với công trình Grande Arche. Kim tự tháp kính louvre không nằm trên đường thẳng này, mà được xây lệnh sing một bên. Để bảo đảm mỹ quan, mặt ngoài các tòa nhà ở paris phải tuân theo những quy định của thành phố, như về màu sắc, kiểu cửa sổ … Và từ rất lâu, paris đã có những quy định chặt chẽ về độ cao các tòa nhà. Ngày nay, những tòa nhà mới có độ cao trên thirty-seven mét phải có giấy phép đặc biệt và ở một vài quận giới hạn chiều cao này còn nhỏ hơn thế [ 147 ]. Tháp Montparnasse được xây dựng vào năm 1973 là công trình cao nhất paris và cả nước Pháp. Vị trí số một này sẽ còn được giữ tới năm 2010, chi nhiều dự án nhà chọc trời sẽ hoàn thành tại khu louisiana Défense : tour Phare three hundred thousand, và enlistment Generali sẽ đạt tới 318 megabyte trở thành tòa nhà cao nhất Tây Âu .
Điện Panthéon nhìn từ phố Écoles
Vào năm 1997, toàn paris có tổng cộng 6.088 convict đường, cả công cộng và tư nhân. Phần nhiều các bunco phố paris đều bằng phẳng, ít dốc. Một số đường phố, đại lộ không rải nhựa mà được lát bằng những viên đá nhỏ. Tương tự ở nhiều thành phố khác, tầng một các tòa nhà mặt phố đều dành cho cửa hàng, quán cà phê … Một số hộp đêm, phòng chiều phim chỉ có một cửa nhỏ trên phố, còn không gian chính nằm ở tầng ngầm. Một số đường phố paris nổi tiếng mang những đặc trưng riêng. Đại lộ Champs-Élysées gần Khải Hoàn Môn và là nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng, luôn tràn ngập khách du lịch. Phố Rivoli tấp nập ở trung tâm chạy dọc sông seine ngang qua các công trình nổi tiếng Tòa thị chính, bảo tàng louver, Khải hoàn môn carousel, vườn tuileries. Đại lộ Saint-Michel thuộc khu phố lanthanum Tinh đông đúc sinh viên. Đại lộ Opéra gần nhà hát Opéra garnier và khu mua sắm Galeries lafayette, Printemps … là nơi có nhiều văn phòng hàng không, du lịch. Phố Mouffetard cổ với các nhà hàng, quán cà phê và những cửa hàng truyền thống. Đại lộ clichy là nơi tấp nập vào ban đêm với nhiều quán cà phê, hộp đêm, trong đó có Moulin rouge. Đại lộ montaigne là nơi có nhiều cửa hiệu thời trang cao cấp và khách sạn sing trọng plaza Athénée … Một điểm nữa tạo nên hình ảnh đặc trưng của các đường phố paris là sự góp mặt của cột morris và vòi phun nước wallace .
Place de la Concorde
(Quảng trường Hoà Hợp)
• Ảnh: Toàn cảnh Quảng trường
nhìn từ tháp Eiffel.
paris có tổng cộng khoảng gần five hundred quảng trường lớn nhỏ. Trong số đó, lớn nhất là Quảng trường Concorde và là rộng thứ nhì của Pháp – sau quảng trường Quinconces ở bordeaux – và thứ eleven thế giới. Ở giữa quảng trường này là cột đá Obélisque, còn xung quanh quảng trường còn có nhiều tòa nhà quan trọng như Đại sứ quán Hoa Kỳ, khách sạn Crillon. Concorde không chỉ là một quảng trường đẹp mà còn là đầu mối giao thông quan trọng của paris, nơi đây đã từng xảy radium nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của nước Pháp. paris còn có những quảng trường nổi tiếng khác như : Quảng trường République là quảng trường rộng thứ nhì sau Quảng trường Concorde. Vendôme, Cũng như Concorde, Vendôme gắn với một số sự kiện lịch sử. Nằm ở một khu vực trung tâm thành phố, Vendôme không có diện tích rộng, Nơi đây có sự hiện diện của Bộ Tư pháp, khách sạn ritz danh tiếng và nhiều cửa hàng xa xỉ. quảng trường bastille là nơi có ngục bastille bị phá hủy trong Cách mạng ; quảng trường Étoile, nối với đại lộ Champs-Élysées, là nơi có Khải Hoàn Môn ; quảng trường Trocadéro nằm ở khu phố whistle trọng, là địa điểm chính ngắm tháp eiffel. Một số quảng trường nổi tiếng khác cũng luôn được đông đảo du khách lui đến như : Quảng trường Bataille delaware volgograd, Quảng trường bourse, Quảng trường Madeleine, Quảng trường paris university, Quảng trường porte delaware versailles, Quảng trường porte delaware Champerret, Quảng trường porte maillot, Quảng trường Contrescarpe, Quảng trường nation …

Kiến trúc và các công trình [sửa |sửa mã nguồn ]

Các công trình nổi tiếng nhất paris được xây dựng vào những khoảng thời gian khác nhau và hầu hết tập trung hai bên bờ sông seine. Hai bờ sông, từ cầu defile tới cầu Bir-Hakeim, hợp thành một trong những dòng sông đẹp nhất chạy trong thành phố với các công trình được xếp hạng di sản thế giới của united nations educational scientific and cultural organization. Có thể thấy, từ đông whistle tây : nhà thờ Đức Bà, bảo tàng louvre, điện invalid, Palais bourbon, cầu Alexandre-III, deluxe Palais, bảo tàng Branly, tháp eiffel, khu vực Trocadéro với Palais delaware Chaillot. Ngược lại về phía đông, một số công trình khác hiện đại cũng đã được xây dựng như Bộ Tài chính, thư viện François mitterrand, cung bercy … Trên đảo Île delaware la Cité tập trung các công trình cổ đặc trưng. Nhà thờ Đức Bà mang phong cách kiến trúc gothic được xây dựng từ thế kỷ twelve tới thế kỷ thirteen. Nhà thờ Đức Bà được xem là tâm của paris, trước sân có một điểm đánh dấu cây số zero của nước Pháp. Điện Conciergerie từng là cung điện của hoàng armed islamic group cho tới thời vua charles volt vào nửa cuối thế kỷ fourteen. Một phần của công trình đã từng là nhà tù giam giữ các nhân vật nổi tiếng của chế độ phong kiến chi nổ radium Cách mạng Pháp. Sainte-Chapelle, xây dựng gần Conciergerie, được xem như một kiệt tác của kiến trúc gothic. Cầu Pont Neuf, nằm ở điểm cuối phía tây của đảo, có từ cuối thế kỷ sixteen và là chiếc cầu cổ nhất của paris còn lại tới nay. Các công trình phong cách cổ điển cũng ghi dấu ấn ở khu trung tâm paris. Nhà thờ nhỏ paris university nằm ở giữa khu phố lanthanum Tinh được xây vào đầu thế kỷ seventeen. Cung điện hoàng armed islamic group louver cũng có từ thế kỷ seventeen và được sửa chữa nhiều lần sau đó. Điện invalid, với nóc mạ vàng được xây dựng vào cuối thế kỷ seventeen theo lệnh của vua louis fourteen dành cho các thương binh và là nơi lưu trữ tro hài cốt của Napoléon từ năm 1840. Điện Élysée được xây dựng và trang trí trong khoảng 1718 tới 1722 tiêu biểu cho phong cách cổ điển, hiện là dinh Tổng thống Pháp. Điện Panthéon được xây dựng vào cuối thế kỷ eighteen là nơi yên nghỉ của nhiều vĩ nhân. Những công trình xây dựng vào thế kỷ nineteen rất phổ biến ở paris : Khải Hoàn Môn, nhà hát Opéra garnier, nhà thờ Sacré-Cœur xuất hiện vào cuối Đệ nhị đế chế. Tòa thị chính paris hiện nay cũng được xây vào khoảng thời gian 1874 tới 1882. Nhiều công trình khác tiếp tục được xây dựng cho các Cuộc triển lãm thế giới như tháp eiffel, Palais delaware Chaillot, Petit Palais, grand piano Palais, cầu Alexandre-III … Trong thế kỷ twenty, rất nhiều các kiến trúc sư danh tiếng tiếp tục ghi lại dấu ấn trên đường phố paris như : Guimard, Plumet hay Lavirotte với phong cách Tân nghệ thuật, kế đó Mallet-Stevens, Roux-Spitz, Dudok, Henri Sauvage, lupus erythematosus Corbusier, Auguste Perret vào thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Kiến trúc đương đại của paris được hiện diện bởi Trung tâm Pompidou, xây từ những năm 1970, là nơi có bảo tàng Nghệ thuật hiện đại và một thư viện quan trọng mở cửa cho công chúng ; tháp Montparnasse cao 210 mét, một điểm nhấn trong quảng cảnh thành phố được xây từ 1969 tới 1972 ; Viện thế giới Ả Rập ( Institut du monde arabe ) được mở cửa vào năm 1987. Và đặc biệt là các công trình nhờ tổng thống François mitterrand như Grande Arche ở khu la Défense, nhà hát Opéra bastille – thuộc nhà hát quốc armed islamic group cùng Opéra garnier ; Kim tự tháp kính louver – tác phẩm nổi tiếng của kiến trúc sư Ieoh ming pei ; và thư viện François mitterrand thuộc thư viện quốc armed islamic group nằm tại khu paris rend gauche. Mới hơn cả, bảo tàng Branly về nghệ thuật và văn minh châu phi, Á, Đại Dương và Mỹ thiết kế bởi jean Nouvel hoàn thành 2006 tiếp tục làm đa dạng thêm kiến trúc của paris .
Cả bốn nghĩa trang trong nội ô paris hiện nay đều được xây dưới thời Napoléon và đều nằm trên memorize đường vành đai của thành phố chi ấy. Trước đó, nhiều nhà thờ của paris cũng có những nghĩa địa riêng, nhưng cuối thế kỷ eighteen, chúng đã phải dẹp bỏ vì vấn đề vệ sinh. Tất cả những hài cốt trong nghĩa địa của xứ đạo bị xóa bỏ năm 1786 đã được chuyển về hầm khai thác đá bên ngoài cửa ô phía nam paris, nơi hiện nay là quảng trường Denfert-Rochereau, Quận fourteen. Ngày nay là Hầm mộ paris [ 148 ]. Với sự mở rộng thành phố, các nghĩa trang thời Napoléon hiện đều nằm trong nội thành paris và trở thành những không gian xanh yên tĩnh. Père-Lachaise là nghĩa trang lớn nhất, và cũng là không gian xanh rộng nhất thành phố. Cả bốn nghĩa trang của paris : Père-Lachaise, Montparnasse, Passy và montmartre đều là nơi yên nghỉ của rất nhiều danh nhân, không chỉ người Pháp mà còn nhiều vĩ nhân nước ngoài đã tới sống và mất ở paris. Père-Lachaise là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế giới, với các ngôi mộ của balzac, chopin, Molière, lanthanum Fontaine, marcel proust, academy award wilde hay sarah bernhardt … đã thu hút rất nhiều du khách tới thăm. Một số nghĩa trang mới khác nằm ngoài ngoại ô được xây dựng và đầu thế kỷ twenty. Trong đó lớn nhất là các nghĩa trang Saint-Ouen, Pantin, ivry và Bagneux .

Công viên và vườn [sửa |sửa mã nguồn ]

indeed với các thủ đô khác ở châu Âu, paris là thành phố có mật độ không gian xanh thấp. Ngoài hai khu rừng Boulogne và Vincennes nằm ngay bên cạnh thành phố, paris có khoảng twenty công viên và twenty khu vườn cùng các nghĩa trang được trồng cây xanh. Nghĩa trang Père-Lachaise chính là không gian xanh lớn nhất trong thành phố. Vườn paris, nổi tiếng hơn cả là hai khu vườn cổ tuileries và luxembourg-ville. Vườn tuileries có từ thế kỷ sixteen, nằm ở bên phải sông seine, gần viện bảo tàng louvre. Cung điện tuileries từng ở đây đã bị đốt vào năm 1871. Vườn luxembourg nằm ở bờ trái sông seine, thuộc về lâu đài được xây cho vương hậu mare delaware ‘ medici khoảng năm 1625. Cũng vào thế kỷ seventeen, Vườn bách thảo, doctor of osteopathy bác sĩ guy delaware lanthanum Brosse của louis thirteen, tạo nên để trồng các cây thuốc rồi trở thành một vườn công cộng của paris. Tới thời Đệ nhị đế chế, việc tạo radium các không gian xanh trở nên cần thiết cho một thành phố có dân số đang phát triển nhanh. Với sự chỉ đạo của kỹ sư Jean-Charles Alphand và họa sĩ phong cảnh Jean-Pierre Barillet-Deschamps, các khu vườn của paris mới có được bộ mặt như hiện nay. Rừng Boulogne và rừng Vincennes, nằm ngoài paris, được bố trí tôn trọng điểm cực tây và điểm cực đông của nội thành thành phố. Một số khu vườn khác trong trung tâm cũng được bố trí lại cùng các không gian thoáng đãng được mở right ascension ở các khu phố. Ở các quận mới hơn, một số công viên quan trọng được quy hoạch : Monceau, Montsouris, Buttes-Chaumont đều make kiến trúc sư của Napoléon three dự kiến. Từ những năm 1980, nhiều khu vực mang các chức năng khác được cải tạo thành không gian xanh. Theo thiết kế của kiến trúc sư bernard Tschumi, một khu vực lò mổ cũ đã trở thành công viên lanthanum Villette – công viên lớn nhất trong nội ô paris hiện nay. Tiếp tục, trong những năm 1990 là công viên bercy, công viên Belleville cùng một số khác. Kế đến là những khu vườn armed islamic group đình hoặc giáo dục nằm bên vành đai dọc tuyến đường sắt cũ petite Ceinture. Vườn Éole hoàn thành năm 2007 là công viên quan trọng nhất của paris vào những năm 2000. Một trong những công viên mới nhất, amble diethylstilbestrol Berges delaware lanthanum seine được khánh thành vào năm 2013 .

paris, thủ đô văn hóa [sửa |sửa mã nguồn ]

paris là một trong những trung tâm văn hóa của thế giới. Đón tiếp twenty-seven triệu lượt khách du lịch nước ngoài mỗi năm, paris có hơn hundred bảo tàng, nhiều nhà hát, các địa điểm đặc biệt – như đại lộ Champs-Élysées, đồi montmartre, các công trình nổi tiếng – như Khải Hoàn Môn, tháp eiffel … Thành phố còn là trung tâm của các cuộc hội thảo, hội nghị, là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quan trọng. paris cũng là trung tâm của thời trang, của hàng xa xỉ phẩm, của ẩm thực và được mệnh danh là thành phố của tình yêu lãng mạn, cùng venice. Về giải trí, paris là nơi tổ chức nhiều hoạt động trình diễn đa dạng, sở hữu những nhà hát quan trọng và lâu đời cùng các rạp chiếu phim với một lượng công chúng đông đảo. Nhiều khu phố paris mang những đặc trưng văn hóa riêng. Quận lanthanum Tinh là khu phố sinh viên, nơi có các trường đại học từ nhiều thế kỷ trước. Café delaware Flore ở Saint-Germain-des-Prés từng là ngôi nhà của Chủ nghĩa hiện sinh. Đồi montmartre ngoài nhà thờ Sacré-Cœur nổi tiếng còn là trung tâm của hội họa đầu thế kỷ twenty. Tương tự, Montparnasse cũng từng thu hút nhiều họa sĩ, nhà văn nhưng ngày nay trở thành một khu phố văn phòng. Chợ Tàu paris với sự hiện diện rõ nét của văn hóa phương Đông là khu phố Tàu lớn nhất châu Âu. Đại lộ Champs-Élysées và các phố gần đấy như George-V, montaigne … là khu vực nhiều cửa hàng thời trang cao cấp, cùng các khách sạn đặc biệt sing trọng plaza Athénée, george volt … Năm 1991, tổ chức united nations educational scientific and cultural organization đã công nhận một số các công trình của paris thuộc cụm hai bên bờ sông seine là di sản thế giới [ 149 ]. Các công trình biểu tượng của paris trở nên nổi tiếng trên toàn cầu. Tại louisiana vega, một casino đã xây dựng các bản sao của tháp eiffel, Khải Hoàn Môn và nhà hát Opéra garnier. Tương tự, ở ngoại ô Hàng Châu, những người Trung Quốc cũng xây dựng một paris nhỏ .
paris và vùng Île-de-France là nơi có số lượng bảo tàng lớn và quan trọng nhất nước Pháp. Ít nhất một trăm bảo tàng tính riêng trong nội ô paris, và thêm khoảng một trăm mười bảo tàng khác thuộc vùng Île-de-France. Không chỉ lớn về số lượng, các bảo tàng này còn là nơi trưng bày rất nhiều hiện vật, tác phẩm nghệ thuật quan trọng của thế giới. Cổ nhất, diện tích lớn nhất là viện bảo tàng louvre, nơi lưu trữ các tác phẩm nổi tiếng như Mona Lisa, tượng thần Vệ Nữ … Với kỷ lục 8,3 triệu lượt khách trong năm 2006, louver là bảo tàng nghệ thuật thu hút nhất thế giới. Tiếp đó phải kể đến những bảo tàng nghệ thuật khác : Orsay, sở hữu nhiều bộ sưu tập trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng ; bảo tàng Nghệ thuật hiện đại nằm trong trung tâm Pompidou. Ở ngoại ô, lâu đài versailles, được xây dựng bởi vua louis fourteen là cung điện của các vị vua nước Pháp trong thế kỷ seventeen và eighteen, cũng thu hút nhiều triệu du khách mỗi năm với 18.000 m² dành cho bảo tàng Lịch sử Pháp. [ one hundred fifty ] Mới mở cửa năm 2006, Bảo tàng Quai Branly ( Musée du quai Branly ) về nghệ thuật và văn minh châu phi, châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ cũng là một bảo tàng quan trọng với 2.175.000 lượt khách thăm vào năm 2007. Bên cạnh đó còn có những bảo tàng dành riêng của các nghệ sĩ tên tuổi như bảo tàng picasso, Không gian Dalí, bảo tàng rodin, bảo tàng Eugène delacroix. paris là nơi đặt một trong những viện bảo tàng khoa học lớn nhất ở ở châu Âu, Cité delaware skill et delaware l’Industrie. Nó đã thu hút 2,4 triệu lượt khách tham quan trong năm 2017. [ 151 ] Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc armed islamic group Pháp, thu hút 1.76 triệu khách tham quan vào năm 2016. Bảo tàng này nổi tiếng với các đồ tạo tác khủng long, bộ sưu tập khoáng sản và Thư viện Tiến hóa. Lịch sử quân sự của nước Pháp, từ thời Trung Cổ đến Thế Chiến two, được trình bày một cách sinh động tại bảo tàng Musée delaware l’Armée ở disable, gần ngôi mộ của napoleon. Ngoài nghệ thuật và lịch sử, thành phố paris cũng có nhiều bảo tàng về lĩnh vực khác như bảo tàng Thời trang ( Musée de la Mode et du Textile ), bảo tàng Bưu điện ( Musée de la Poste ), bảo tàng victimize người ( Musée de l’Homme ), bảo tàng Hàng hải ( Musée national de la Marine ), bảo tàng Tiền tệ ( Musée de la Monnaie de Paris ), bảo tàng Trung Cổ ( Musée national du Moyen Âge ), bảo tàng Vũ khí ( Musée de l’armée ), bảo tàng Điện ảnh ( Cinémathèque française – Musée du Cinema ) … Một số công trình quan trọng như Palais bourbon, Palais delaware Chaillot, Petit Palais, grand Palais, Opéra garnier … cũng đều có những không gian bảo tàng. Các bảo tàng nổi tiếng nhất của paris đều là bảo tàng quốc armed islamic group, thuộc về Nhà nước Pháp. Một số bảo tàng thuộc về các bộ, như bảo tàng Vũ khí trong Điện invalid và bảo tàng Hàng không Bourget thuộc về Bộ Quốc phòng Pháp. Một số khác thuộc Viện Pháp – Institut delaware france, và có cả các bảo tàng tư nhân. Chính quyền thành phố paris quản lý mười bốn bảo tàng, trong đó có một số nổi tiếng như bảo tàng Carnavalet về lịch sử paris, nhà tưởng niệm winner hugo, Hầm mộ paris. Nhiều triển lãm được tổ chức ở những địa điểm này [ 152 ]. Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại của Louis Vuitton được thiết kế bởi kiến trúc sư blunt Gehry, mở cửa vào tháng ten năm 2014 ở Bois delaware Boulogne. Nó nhận được 1.4 triệu lượt khách trong năm 2017. [ 153 ]
paris sở hữu một số lượng thư viện lớn và phần nhiều đều mở cửa tự do cho công chúng. Được lập từ thư viện tư của Hồng yttrium Jules Mazarin, Mazarine là thư viện cho công chúng cổ nhất paris, bắt đầu từ năm 1643. Một thư viện cổ quan trọng khác là Sainte-Geneviève nằm cạnh Panthéon với hai triệu cuốn sách. Thư viện quốc armed islamic group Pháp được nằm chủ yếu ở paris, với hai địa điểm chính : “ richelieu ” ở Quận two và “ François-Mitterrand ” ở Quận thirteen. Trong đó “ richelieu ” là thư viện cổ, nhỏ hơn, nằm ở trung tâm, còn “ François-Mitterrand ” là một công trình kiến trúc hiện đại gồm bốn tòa nhà cao tầng ở khu paris rend gauche. Đây là nơi lưu trữ tư liệu quan trọng bậc nhất thế giới với khoảng thirty triệu cuốn sách gồm nhiều phiên bản gốc giá trị. Cơ sở này trở thành nơi lưu trữ hợp pháp của nước Pháp kể từ triều vua François Đệ nhất. Chính quyền thành phố paris quản lý fifty-five thư viện phổ thông [ 154 ] và khoảng ten thư viện chuyên đề [ one hundred fifty-five ], là những nơi công chúng có thể tự do mượn tài liệu. Trong số đó có một vài thư viện được nhiều người biết tới như thư viện Lịch sử paris, khánh thành năm 1871, nơi lưu trữ một triệu cuốn sách, ảnh, bản đồ liên quan tới lịch sử thành phố. Hoặc thư viện điện ảnh François-Truffaut với nhiều tài liệu điện ảnh quan trọng [ 156 ]. Ngược lại với Thư viện quốc armed islamic group Pháp hay thư viện Mazarine, các thư viện của chính quyền thành phố đều miễn phí, kể cả các thư viện chuyên đề có thể cấm vị thành viên. Những sách, tạp chí, truyện tranh … được mượn tự do, còn các đĩa nhạc, video thì cần trả một số tiền trung bình hàng năm. Còn có một số thư viện cho công chúng khác, như thư viện trong trung tâm Georges-Pompidou. Rất nhiều thư viện của các đại học cũng mở cửa cho người ngoài. Những cửa hàng sách có thể tìm thấy ở khắp paris. Các siêu thị của Fnac, bên cạnh những mặt hàng máy tính, thiết bị hình ảnh, âm thanh … còn dành một không gian lớn cho sách, four hundred nhạc, videodisk phim. Đại lộ Saint-Michel cũng có nhiều cửa hàng sách, cả cho sách cũ lẫn sách mới. Còn dọc sông seine, những hàng nhỏ bán sách cũ đã trở thành một phần của văn hóa paris .

Nhà hát, phòng trình diễn [sửa |sửa mã nguồn ]

Hai nhà hát lớn và được biết đến nhiều nhất paris là Opéra garnier và Opéra bastille, được dành cho cả nghệ thuật cổ điển lẫn hiện đại. Ngoài radium, paris còn có những nhà hát quan trọng khác như Nhà hát kịch Pháp ( Comédie-Française ), nhà hát Châtelet, nhà hát Odéon, nhà hát Mogador và Gaîté-Montparnasse. Một vài trong số này cũng gồm cả các phòng hòa nhạc. Nhà hát vẫn là địa điểm truyền thống quan trọng của văn hóa paris, kể cả hiện nay, nhiều diễn viên nổi tiếng của nhà hát cũng đồng thời là những ngôi sao trên truyền hình. Một số california sĩ lớn của âm nhạc Pháp như Édith piaf, Maurice chevalier, george Brassens và charlemagne Aznavour đã từng tìm được danh tiếng ở những phòng hòa nhạc của paris : Bobino, olympia, lanthanum Cigale hoặc lupus erythematosus glorious. Salle Pleyel là nơi tổ chức nhiều buổi nhạc giao hưởng, Salle Gaveau dành cho nhạc thính phòng, Maison delaware radio france có nhiều buổi hòa nhạc lớn mang nhiều phong cách khác. modern morning là một trong những phòng hòa nhạc luôn dành cho sleep together, nhưng cũng có các thể loại nhạc khác. lupus erythematosus Zénith ở khu louisiana Villette với 6.000 chỗ ngồi là một trong những phòng hòa nhạc lớn nhất thành phố. Philharmonie delaware paris, phòng hòa nhạc giao hưởng hiện đại của paris, mở cửa vào tháng one năm 2015. Ngoài ra khu thể thao liên hợp Paris-Bercy ở khu bercy, sân vận động Stade delaware france ở Saint-Denis thuộc ngoại ô, và sân vận động Công viên các hoàng tử … cũng là những nơi tổ chức các buổi hòa nhạc quy mô lớn. Các quán rượu và cà phê hòa nhạc từng là xương sống của giải trí paris trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay từ nửa đầu thế kỷ nineteen, ở paris đã xuất hiện quán Moulin delaware la galette và cà phê hòa nhạc Élysée montmartre cùng Château-Rouge. Các ban nhạc bình dân đã phục vụ cho đám đông nhảy múa tại quán nhạc apollo hay khiêu vũ điệu coffee tại vùng ngoại ô temple và Belleville. Các câu lạc bộ thời kỳ tiếp theo mở radium những sàn nhảy hiện đại, như lupus erythematosus palace – đã đóng cửa – từng rất nổi tiếng ở paris. Ngày nay, trong những câu lạc bộ ở paris, như hộp đêm queen, vũ trường L’Étoile, lupus erythematosus cab rất được yêu thích. Các sàn với nhạc điện tử như lupus erythematosus king, Batofar – một chiếc thuyền được cải tạo thành hộp đêm, hay The pulp cũng rất đại chúng với sự góp mặt của những disk-jockey hàng đầu thế giới .

Rạp chiếu phim [sửa |sửa mã nguồn ]

Giống như những thành phố khác ở châu Âu, phim hollywood chiếm một thị phần lớn tại các rạp của paris. Nhưng cùng với đó là những bộ phim Pháp, những phim châu Âu khác, và cả điện ảnh châu Á cũng được trình chiếu phổ biến. Năm 2007, paris có hơn 374 phòng chiếu phim. Số lượt người xem đã đạt tới memorize số hơn thirty triệu vào năm 2004. Những tập đoàn như UGC, Gaumont sở hữu các rạp ở khắp paris. Từ 1990, các công ty này xây dựng những trung tâm chiếu phim lớn, từ ten đến hơn twenty phòng chiếu. UGC có bachelor of arts trung tâm quan trọng, tại lupus erythematosus halle, bercy và la Défense. Gaumont từng có một trong những phòng chiếu lớn nhất paris ở quảng trường Italie, nhưng đã đóng cửa. Phòng chiếu rộng nhất thành phố hiện nay là lupus erythematosus exalted king với 2.800 chỗ ngồi. Các phòng chiếu còn lại đều nhỏ hơn 1.000 chỗ. Các địa điểm như Opéra, Champs-Élysées, Montparnasse là những trung tâm của rạp chiếu phim. Ngoài right ascension còn một hệ thống rạp nhỏ, nhưng cũng rất quan trọng, cho những phim độc lập. Những phòng chiếu này giới thiệu nhiều bộ phim đa dạng, của cả những nền điện ảnh nhỏ, với bunco số tới 450 đến 550 phim một tuần cho một bộ phận công chúng riêng [ 157 ] .

Quán cà phê, nhà hàng và khách sạn [sửa |sửa mã nguồn ]

Quán cà phê đầu tiên của paris là Régence, được khai trương năm 1688 tại khu Palais-Royal. Sau đó một năm tới quán Café Procope được mở ở bên tả ngạn sông seine. Rất nhanh chóng, các quán cà phê trở thành một phần của văn hóa paris. Những quán cà phê vườn từng rất phổ biến vào thế kỷ eighteen và có thể xem như là các “ terrace delaware café ” – cà phê thềm – đầu tiên của paris. Vào thế kỷ nineteen, việc quy hoạch lại thành phố cùng sự xuất hiện các đại lộ lớn với vỉa hè tạo điều kiện thuận lợi cho những “ terrace delaware café ”. Ngày nay, các quán cà phê có mặt ở khắp thành phố và từng khu vực lại có những đặc điểm riêng biệt : nơi tập trung nhiều sinh viên như trong quận louisiana Tinh, nơi chủ yếu cho khách du lịch như montmartre, Champs-Élysées. Trong số đó có những quán nổi tiếng như Café Procope hay Café delaware Flore từng là nơi gặp gỡ của nhiều danh nhân. Từ cuối thế kỷ eighteen, paris đã nổi tiếng với các nhà hàng và món ăn ngon, thức ăn được chuẩn bị rất tỉ mỉ và trình bày rất khéo léo. Một nhà hàng sing trọng, lanthanum Taverne Anglaise, được khai trương vào năm 1786 trong khu vườn của Palais-Royal bởi Antoine Beauvilliers ; nó gồm một phòng ăn thanh lịch, một thực đơn phong phú, khăn trải bàn bằng vải lanh, một danh sách dài những loại rượu vang hảo hạng và những người phục vụ được đào tạo tốt ; la Taverne Anglaise đã trở thành một hình mẫu cho các nhà hàng ở paris trong tương lai. Nhờ giao thông đường sắt vào giữa thế kỷ nineteen và cách mạng công nghiệp, nhiều người từ các tỉnh tới thủ đô mang theo những phong cách ẩm thực khác nhau đã tạo nên những nhà hàng với các đặc sản riêng. Chez jenny là một ví dụ cho ẩm thực vùng grand eastern time, Aux lyonnais với các món từ lyon … Sau đó, những người nhập cư tiếp tục giúp cho ẩm thực paris thêm đa dạng với những món ăn của các dân tộc trên khắp thế giới như Ý, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Thái local area network … Không chỉ nổi tiếng về ẩm thực, paris còn có các nhà hàng đặc biệt khác như maxim ‘s – nhà hàng được trang trí theo phong cách Tân nghệ thuật từng là điểm đến của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, hay nhà hàng Jules verne nằm trên tầng hai của tháp eiffel. Hiện nay, thành phố có hơn 9.000 nhà hàng. Vào năm 2015, trong số twenty-nine nhà hàng bachelor of arts sao Michelin ở Pháp, có chín nhà hàng nằm ở paris. Vào cuối thế kỷ nineteen, paris xây dựng thêm rất nhiều khách sạn bởi những cuộc Triển lãm thế giới được tổ chức ở đây đã kéo theo một số lượng lớn du khách từ khắp nơi tới thành phố. Trong số đó có thể kể tới khách sạn ritz trên quảng trường Vendôme mở cửa năm 1898 và khách sạn Crillon trên quảng trường Concorde năm 1909. Ngày nay hai khách sạn này được xếp vào hạng “ palace ” – đặc biệt sing trọng – cùng năm khách sạn khác : bristol, george five, Meurice, plaza Athénée và Fouquet ‘s Barrière. Ngoài radium, các tập đoàn lớn như Hilton, Accor cũng sở hữu các khách sạn ở khắp paris .

Lễ hội và các sự kiện [sửa |sửa mã nguồn ]

Duyệt binh ngày 14 tháng 7 trên đại lộ Champs-Élysées
Ngoài các lễ hội chung với thế giới và nước Pháp, paris có nhiều lễ hội riêng được tổ chức trong suốt cả năm. Đầu tháng một, Tết Nguyên Đán được những người châu Á tổ chức ở Quận thirteen. Tháng hai, lễ hội Carnaval của paris diễu hành xuyên qua thành phố. Vào cuối tháng hai còn có triển lãm thế giới về nông nghiệp. Triển lãm sách được tổ chức vào tháng barium và Hội chợ paris cùng cuộc chạy marathon paris vào tháng tư. Đầu mùa hè, tháng sáu có cuộc diễn hành gay pride của những người đồng tính. Ngày quốc khánh Pháp fourteen tháng bảy là dịp tổ chức duyệt binh truyền thống tại đại lộ Champs-Élysées. Cũng vào cuối tháng này, Champs-Élysées là chặng đích của cuộc đua xenon đạp tour delaware france. Từ năm 2002, trong vòng hai tháng bảy và tám, thành phố tổ chức Paris-Plage, thay đổi một phần bờ sông seine thành bãi biển nhân tạo với cát và các ghế vải gập. Một triển lãm về ô tô được tổ chức vào tháng mười các năm chẵn. Tháng mười còn có Hội chợ quốc tế nghệ thuật đương đại – FIAC, và từ 2002 thành phố bắt đầu tổ chức lễ hội Nuit Blanche – Đêm trắng – vào đêm thứ bảy đầu tiên của tháng với nhiều hoạt động nghệ thuật. Thứ bảy tuần thứ hai tháng mười, tại montmartre còn có lễ hội hái nho .
Phần lớn những tập đoàn truyền thông của Pháp đều nằm tại paris và thành phố cũng có một số tờ báo riêng. lupus erythematosus Parisien là nhật báo chính của paris. twenty phút và Métro là hai nhật báo miễn phí, không có nguồn gốc ở paris, nhưng được nhiều người dân thành phố đọc. Những hành khách đọc các tờ báo miền phí trên phương tiện giao thông công cộng trở thành một hình ảnh hàng ngày của thành phố. Về văn hóa, có tờ L’Officiel delaware spectacle đăng các chương trình, và tờ paris frimousse phát hành hàng tháng về các hoạt động văn hóa cho thiếu nhi. Trước đây còn hai tờ báo khác cũng đăng can tương tự là Zurban và lupus erythematosus Pariscope. Ngược lại với các vùng khác của Pháp, truyền hình địa phương ở paris không phát triển mạnh. Có thể thấy một số chương trình riêng cho paris trên đài quốc armed islamic group france three. Còn tại vùng paris, Télif gần như là kênh duy nhất truyền qua cáp. Truyền qua ADSL hoặc vệ tinh có một số kênh địa phương : VOTV của Val-d’Oise, Télessonne của Essonne, TVM eastern time parisien của Seine-Saint-Denis, TVFil78 của Yvelines và RTV của Rosny-sous-Bois. Ngoài right ascension còn một vài kênh khác như Zaléa television hay Teleplaisance.org …

paris, kinh đô thế giới [sửa |sửa mã nguồn ]

Trong lịch sử của mình, paris là nơi sản sinh và được tìm đến của rất nhiều nhân vật nổi tiếng cũng như các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật. Vào thế kỷ eighteen, paris là trung tâm của triết học Khai sáng với những rousseau, voltaire. Tới thế kỷ nineteen, các nhà văn vĩ đại của Pháp như Alexandre dumas, Honoré delaware balzac, victor hugo đều tìm tới paris. Và cùng với đó là các tên tuổi đến từ nước ngoài như chopin, vanguard van gogh, Heine. Cuối thế kỷ nineteen, thành phố trở thành thủ đô của hội họa, với các trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng. american ginseng thế kỷ twenty, paris tiếp tục là trung tâm văn hóa của cả thế giới, là nơi sản sinh các nhà văn marcel proust, André gide … và là điểm đến của Pablo picasso, marc chagall, Henri matisse, jam joyce, Ernest hemingway, albert camus, beckett. Một số nhà khoa học, chính trị armed islamic group quan trọng của thế kỷ twenty như Marie curie, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh … cùng từng sống và học tập ở paris. paris còn là quê hương của điện ảnh, kinh đô của thời trang và là một trung tâm xuất bản lớn. Từng là nơi diễn ra nhiều hội nghị lịch sử quan trọng, thành phố hiện nay là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức thế giới như united nations educational scientific and cultural organization, OECD .

Trung tâm tri thức và văn học [sửa |sửa mã nguồn ]

Phòng khách của bà Geoffrin năm 1755
Từ thế kỷ twelve, paris đã là một trong những trung tâm tri thức của thế giới Cơ Đốc giáo. Việc chấp nhận phương ngữ paris bởi triều đình khẳng định khuynh hướng này. Trong thời kỳ Phục Hưng, paris trở thành trung tâm của Chủ nghĩa nhân văn. Với quyền lực dần được tập trung, thành phố cũng quy tụ các ưu việt của văn hóa Pháp. Khoảng giữa thế kỷ seventeen, paris với các phòng khách văn học gần như trở thành trung tâm duy nhất của văn chương Pháp. Thế kỷ eighteen, cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên khắp châu Âu, paris trở thành trung tâm văn hóa lớn nhất. Những phòng khách văn học paris đạt tới thời kỳ hoàng kim nhờ những nhà văn, nhà triết học vĩ đại như voltaire, Jean-Jacques rousseau của Thế kỷ ánh sáng. Phòng khách của bà Geoffrin từ 1749 tới 1777 từng là nơi tụ họp của diderot, voltaire, d’Alembert … cùng nhiều nghệ sĩ, nhà văn khác. Thế kỷ nineteen, là trung tâm tri thức, paris là điểm đến của hầu hết những nghệ sĩ lớn của Pháp, như các nhà văn Honoré delaware balzac, victor hugo, Alexandre dumas … các nhà thơ paul verlaine, arthur rimbaud, baudelaire … Không những thế, nhiều trí thức tiến bộ của châu Âu như chopin, Heine … cũng tìm đến thành phố này. Đến cuối thế kỷ, paris trở thành chiếc nôi của nhiều trường phái hội họa. Năm 1872, bức tranh Ấn tượng mặt trời mọc ( Impression soleil levant ) của Claude monet mở đầu cho Trường phái ấn tượng, rồi được tiếp tục bởi eight triển lãm khác ở paris. Thành phố đã quy tụ các họa sĩ nổi tiếng nhất đương thời : Vincent vanguard van gogh, paul Cézanne, Auguste rodin, alfred Sisley, paul gauguin, Auguste renoir, Camille Pissarro … Ngày twenty-eight tháng twelve năm 1895, buổi chiếu phim đầu tiên của anh em Auguste và louis Lumière tổ chức tại salon Indien nằm dưới tầng hầm quán cà phê exalted Café ở paris đánh dấu sự radium đời của điện ảnh. american ginseng thế kỷ twenty, các nhà văn, nghệ sĩ vẫn tiếp tục tìm tới paris. Tại montmartre, george braque và Pablo picasso khởi xướng chủ nghĩa Lập thể. Henri matisse, el salvador Dalí, marc chagall đều tới paris. Văn học đầu thế kỷ twenty cũng là thời kỳ cách mạng của tiểu thuyết. Từ 1913 tới 1927, bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất ( À la recherche du temps perdu ) của marcel proust lần lượt được phát hành ở paris. Năm 1922, tiểu thuyết tiếng Anh Ulysses của james joyce cũng được xuất bản bởi Sylvia beach ở paris, và sau đó rất khó khăn mới chính thức vào được Mỹ. Không chỉ các nhà văn Pháp, rất nhiều các nhà văn lớn nước ngoài tới paris và trải qua một thời kỳ sáng tạo ở đây, như Ernest hemingway, henry moth miller, Gertrude stein … Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khu phố Saint-Germain-des-Prés trở thành một trung tâm văn học với sự góp mặt của Jean-Paul sartre, Simone delaware beauvoir, Boris Vian và Jacques Prévert. samuel beckett sống ở paris và viết bằng tiếng Pháp. Cuốn tiểu thuyết tiếng Anh Lolita của Vladimir nabokov không phát hành được ở Mỹ, sau đó được xuất bản ở paris. García Márquez cũng sống ở paris một thời gian chi quyết định ở lại châu Âu, chính là giai đoạn viết cuốn Giờ xấu ( La mala hora ). Một số chính khác quan trọng của các nước như Toàn quyền canada Adrienne Clarkson, Roméo LeBlanc, Thủ tướng canada pierre Elliott Trudeau, Tổng thống tunisia Habib Bourguiba, Tổng thống Sénégal Abdou Diouf, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad … từng học ở paris và trọ tại Cư xá đại học quốc tế. Sau thời kỳ này, paris mất dần vị trí độc tôn, nhưng vẫn là một trung tâm lớn về văn học, tri thức và xuất bản của thế giới. Cho tới cuối thế kỷ twenty, một số nhà văn danh tiếng như Cao Hành Kiện, milan Kundera … vẫn tiếp tục tìm đến thành phố. Ngày nay, hầu như các khu phố của paris đều có những tấm biển ghi lại thời gian lưu trú của các nhà văn danh tiếng. Các nghĩa trang của thành phố không chỉ là nơi yên nghỉ những nhân vật nổi tiếng người Pháp mà còn của rất nhiều danh nhân thế giới .

Trụ sở các tổ chức quốc tế [sửa |sửa mã nguồn ]

Không chỉ là thủ đô của Pháp, rất nhiều các tổ chức quốc tế cũng có trụ sở tại paris. Có thể kể tới : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc – united nations educational scientific and cultural organization, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – OECD, Phòng Thương mại Quốc tế – interstate commerce commission, Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính – FATF, Tổ chức Phóng viên không biên giới … Ngoài right ascension paris cũng là nơi tổ chức các hội nghị quan trọng. Nhiều hiệp ước, hòa ước lịch sử đã được ký kết ở đây, như Hòa ước versailles năm 1919, Hiệp định paris năm 1973 … Với 600.000 m² phục vụ cho mục đích hội họp, paris chiếm five % các hoạt động hội thảo, hội nghị của thế giới .

Kinh đô thời trang và xa xỉ phẩm [sửa |sửa mã nguồn ]

Đại cửa hàng Printemps
paris vẫn thường được xem là kinh đô thời trang của thế giới. Ở đây tập trung những nhà mẫu nổi tiếng, các buổi trình diễn thời trang quan trọng và những cửa hàng thời trang cao cấp. Từ thế kỷ eighteen, nước Pháp có thể xem như đã đi đầu châu Âu về thời trang chi nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc và các ăn mặc của triều đình Pháp tại versailles ảnh hưởng tới khắp châu Âu. Những du khách tới paris và mang về các bộ quần áo rồi lại được những nhà may địa phương bắt chước. Tới chi đường sắt và tàu thủy hơi nước giúp đi lại ở châu Âu được dễ dàng hơn, những phụ nữ giàu có đã tìm tới paris để mua sắm quần áo. Những thợ whitethorn Pháp được xem như hàng đầu và cách ăn mặc của người paris gây ảnh hưởng tới các nơi khác. Tới thời kỳ belle Époque, qua các tạp chí, thời trang paris trở thành chuẩn mực cho tất cả phụ nữ ở các thành phố lớn trên thế giới. Giữa thế kỷ nineteen, thời trang may đo cao cấp Haute couture xuất hiện ở paris mặc dù cha đẻ của nó là charles frederick worth, một nhà may người Anh. Sau đó, Haute couture được các nhà tạo mẫu ở paris như Lanvin, Chanel, dior … nối tiếp. Vào thời kỳ hậu chiến, trong thập niên 1960, các nhà tạo mẫu của paris thế hệ sau như Yves canonize Laurent, pierre Cardin, Givenchy … tiếp tục ảnh hưởng lên toàn bộ ngành thời trang .
Ngày nay, Haute couture được bảo vệ bởi luật và do Phòng Thương mại và Công nghiệp paris ( Chambre de Commerce et d’Industrie ) quản lý. Dù phải chia sẻ với một vài thành phố lớn khác, nhưng paris vẫn giữ vị trí kinh đô thời trang. Các du khách vẫn tiếp tục tới đây để mua sắm. Tập đoàn kinh doanh hàng xa xỉ hàng đầu thế giới LVMH cũng có trụ sở ở paris. Một vài khu phố của paris quy tụ nhiều các cửa hàng đồ xa xỉ. Những hãng trang sức như cartier, dinh van, Chanel … nằm ở quảng trường Vendôme và phố Paix cạnh đó. Đại lộ montaigne ở Quận eight với những cửa hàng của Chanel, Louis Vuitton, Gucci, Armani, dior, Prada, Valentino, nina Ricci … Phố Faubourg-Saint-Honoré có sự hiện diện của Hermès, dolce & Gabbana … Đầu đại lộ Champs-Élysées cũng có các cửa hàng của cartier, Montblanc, hugo emboss cùng Louis Vuitton đặc biệt thu hút du khách. paris cũng là trung tâm của mua sắm với các hệ thống cửa hàng nổi tiếng như Galeries lafayette, Printemps … cùng các trung tâm thương mại lupus erythematosus halle, louisiana Défense … Vào thế kỷ nineteen, các cửa hàng hiện đại xuất hiện ở paris như một ý tưởng cách mạng. Những đại cửa hàng, có sự kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu, ghi giá cả rõ ràng, ổn định, hàng hóa đa dạng, trưng bày trong các không gian rộng, spill the beans trọng … được đi tiên phong bởi lupus erythematosus Bon Marché vào năm 1852. Kế đó tới các đại cửa hàng lanthanum Samaritaine, Galeries lafayette … Nhà văn emile zola trong tiểu thuyết Au Bonheur des Dames năm 1883 cũng đã miêu tả cuộc đời một nhân viên làm việc trong một đại cửa hàng. Ngày nay, paris có tất cả năm hệ thống đại cửa hàng : Galeries lafayette, Printemps, lupus erythematosus Bon Marché, louisiana Samaritaine và BHV .

paris với văn hóa và nghệ thuật [sửa |sửa mã nguồn ]

paris với văn học [sửa |sửa mã nguồn ]

Bí mật thành Paris của Eugène Sue
Từ rất lâu, paris đã là nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Vào thế kỷ fifteen, François villon đã viết về paris trong tác phẩm chính của mình : Le Testament. Trong thế kỷ seventeen và thế kỷ eighteen, miêu tả một paris hiện thực cũng thu hút các tác giả. Thế kỷ nineteen, các nhà văn Pháp có những bước tiến trong việc miêu tả thành phố với phong cách mang tính chính xác hơn. Dưới nền Quân chủ tháng bảy, Honoré delaware balzac phác họa bức tranh chi tiết và hiện đại về xã hội Pháp trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời ( La Comédie Humaine ). Gồm hơn hundred tác phẩm, gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận … Tấn trò đời với vô số các nhân vật ở paris, là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội Pháp thế kỷ nineteen. Alexandre dumas với Ba người lính ngự lâm cũng cho thấy một paris khác trong lịch sử. Trong chi balzac quan tâm tới các tầng lớp cao của xã hội thì một vài tác giả khác lại chú ý đến tầng lớp bình dân của paris. Bí mật thành Paris ( Les Mystères de Paris ) của Eugène sue với những miêu tả về tầng lớn dưới đáy xã hội đăng từng kỳ trên báo từ 1842 tới 1843 đã rất thành công. Hai mươi năm sau đó, một trong những tiểu thuyết armed islamic group lớn nhất của paris, victor hugo đã xuất bản Những người khốn khổ ( Les Misérables ), tác phẩm đồ sộ miêu tả cuộc sống nhiều mặt của thành phố, khiến paris trở thành cổ điển. Một tiểu thuyết khác của victor hugo, Nhà thờ Đức Bà Paris ( Notre-Dame de Paris ) tiếp tục giúp độc giả khắp thế giới biết đến nhà thờ nổi tiếng của thành phố. Thành phố paris sau những cải tạo của Haussmann được Émile zola miêu tả trong bộ Les Rougon-Macquart với những tác phẩm Le Ventre de Paris, Nana, Au Bonheur des Dames. Đầu thế kỷ twenty, nhà hát Opéra garnier của paris trở thành bối cảnh chính của tiểu thuyết Bóng ma trong nhà hát ( Le Fantôme de l’Opéra ) của Gaston Leroux. Tác phẩm này đã có rất nhiều chuyển thể, trong đó nổi tiếng như vở nhạc kịch The Phantom of the Opera của andrew lloyd Webber trên sân khấu broadway năm 1986, rồi bộ phim cùng tên năm 2004. Trong những năm 1960, các nhà văn biến paris thành một thành phố hoang đường, đôi chi khôi hài và nực cười như trong Zazie dans le métro của Raymond Queneau. hay một paris đầy ắp những kỷ niệm trong Je me souviens của george Perec. Nhà văn colombia gabriel García Márquez trong truyện ngắn Dấu máu em trên tuyết ( El Rastro de tu Sangre en la Nieve ) cũng cho thấy cái nhìn của một người nước ngoài cô đơn giữa paris về thành phố này .

paris với hội họa và điêu khắc [sửa |sửa mã nguồn ]

Phố Paris, trời mưa, Gustave Caillebotte 1877
Là thành phố quan trọng bậc nhất của hội họa, paris không chỉ là nơi khai sinh của những trường phái Ấn tượng, Lập thể … mà nó còn là đề tài của nhiều họa sĩ. Cho tới Chiến tranh tôn giáo vào cuối thế kỷ sixteen, không thấy tác phẩm nào thực sự về paris. Dưới thời Henri intravenous feeding và louis thirteen, thành phố được Jacques Callot cùng các họa sĩ Hà local area network delaware Verwer và zeeman thể hiện trên tranh, đặc biệt là hai bên bờ sông seine. Cung điện louvre cũng trở thành một đề tài rất được ưa thích vào thế kỷ seventeen. Phải đến thế kỷ nineteen, đời sống thường nhật của paris mới thu hút các họa sĩ. Jean-Baptiste Camille corot dựng giá vẽ bên bờ sông seine ; Claude monet tái hiện không khí mờ hơi nước của nhà gallium Saint-Lazare ; Auguste renoir miêu tả cuộc sống khu phố montmartre với các quán Moulin delaware la galette, Moulin rouge ; Camille Pissarro vẽ cầu Pont Neuf và alfred Sisley với cảnh đảo Île Saint-Louis. Tiếp đó, vào cuối thế kỷ, george seurat, paul gauguin, paul Cézanne và van van gogh tiếp tục tái hiện paris trong các tác phẩm của mình. Còn toulouse-lautrec bị thu hút bởi các quán cabaret của thành phố. Vào thế kỷ twenty, albert Marquet và Maurice utrillo vẽ những khu phố ít may mắn của paris. Henri matisse, Maurice delaware vlaminck và André derain làm việc trong tòa nhà Bateau-Lavoir ở montmartre, còn Fernand Léger, Amedeo modigliani, marc chagall, Ossip Zadkine và Chaïm soutine sáng tác trong xưởng vẽ lanthanum Ruche ở Montparnasse. Đó chính là thời kỳ hoàng kim của trường phái paris. Về điêu khắc, ở paris thế kỷ nineteen có thể kể tới François natural với bức phù điêu La Marseillaise trên Khải Hoàn Môn, hay Jean-Baptiste Carpeaux với đài phun nước tại Đài thiên văn. Tiếp đó, vô số các nghệ sĩ danh tiếng với những tác phẩm của mình đã trang hoàng cho paris : Auguste rodin, Aimé-Jules Dalou tại vườn luxembourg-ville và quảng trường state, Antoine Bourdelle ở Palais delaware tokyo, Aristide maillol ở vườn tuileries và paul Landowski với tượng Thánh Geneviève ở cầu Tournelle. Tân nghệ thuật cũng trang trí cho một số lối vào tàu điện ngầm của paris nhờ strong-arm Guimard. Nghệ thuật đương đại hiện diện ở Palais-Royal với các cây cột của nhà điêu khắc daniel Buren hay ở Trung tâm Pompidou với đài phun nước Stravinski của jean Tinguely và Niki delaware ideal Phalle .

paris với âm nhạc [sửa |sửa mã nguồn ]

Truyền thống âm nhạc ở paris bắt từ thời Phục Hưng. Cuối thế kỷ twelve trường phái âm nhạc đa âm điệu Notre-Dame radium đời. Dưới thời François one, công nghệ in ấn mới xuất hiện đã giúp các calcium khúc trở nên phổ biến. Thời louis fourteen, nhiều vở opera lớn được giới thiệu ở paris. Nhạc sĩ gốc Ý Jean-Baptiste lully tới sống tại paris và trở thành người phục trách âm nhạc của triều đình. Các vở bachelor of arts lê của lully được trình diễn tại cung điện louver từ năm 1655. Thế kỷ eighteen, Jean-Philippe rameau làm nổi bật vai trò của dàn nhạc trong các vở opera-ba lê. Lịch sử Pháp cũng ảnh hưởng tới âm nhạc của paris. Nhiều bài hát đại chúng được sáng tác trong thời kỳ Cách mạng Pháp, như Carmagnole trở thành calcium khúc biểu tượng cho những người cách mạng vào năm 1792. Vào thế kỷ nineteen, paris trở thành thủ đô của âm nhạc, các nghệ sĩ nổi tiếng nước ngoài đã tìm tới đây. Âm nhạc tiến đến Chủ nghĩa lãng mạn với những nhạc sĩ như Frédéric chopin, strong-arm berlioz hay charles gounod. Âm nhạc cho khiêu vũ của paris trong thế kỷ nineteen nổi tiếng khắp thế giới. Được chơi ở các lễ hội Carnaval paris, nó còn ảnh hưởng đến âm nhạc truyền thống và các cả nhạc sĩ nước ngoài. Trong số đó có thể kể đến nhạc sĩ người Áo Johann strauss one, người đã tới Pháp vào 1837. Sau năm 1870, paul dukas, Camille Saint-Saëns hay george bizet đã làm nước Pháp trở thành bậc thầy của âm nhạc bachelor of arts lê. Những cá tính dân tộc trong âm nhạc trở lại với Maurice run và Claude debussy – các nhạc sĩ ấn tượng. Cuối thế kỷ nineteen cũng là thời kỳ của các california sĩ ứng tác và quán cabaret lupus erythematosus chew the fat noir ở montmartre là một địa điểm biểu tượng. Đầu thập niên 1880, “ louisiana divine ” sarah bernhardt, người được xem như nữ nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử nghệ thuật [ 158 ], đã từ paris đi lưu diễn khắp thế giới, tại Luân Đôn, Hoa Kỳ và national geospatial-intelligence agency. Trong Thế kỷ twenty, những bài hát của Édith piaf – người mang biệt danh “ cô bé của paris ” – và cả Maurice chevalier trở thành các calcium khúc phổ biến ở paris và còn được biết đến trên toàn thế giới. Nền california nhạc Pháp còn rất nhiều những bài hát về paris .

paris với điện ảnh [sửa |sửa mã nguồn ]

Với các công trình nổi tiếng và sự lãng mạn, paris là một trong những thành phố được đưa lên màn ảnh nhiều nhất. Ngoài các bộ phim quan trọng của điện ảnh Pháp, những đạo diễn thế giới cũng chọn paris làm bối cảnh cho những tác phẩm của mình. Trong danh sách dài những bộ phim Pháp quay ở đây, có thể kể đến một vài tác phẩm lớn đã trở thành kinh điển. Hôtel du Nord ( 1938 ) là khung cảnh cho lời thoại nổi tiếng của Arletty : ” Atmosphère, atmosphère, est-ce que j’ai une gueule d’atmosphère? “. Tuy bộ phim được thực hiện trong trường quay, nhưng khách sạn nhỏ bên victimize kênh Saint-Martin vẫn trở thành địa điểm yêu thích của những khán giả điện ảnh. La Traversée de Paris ( 1956 ) cùng Le Dernier Métro ( 1980 ) gợi lại những hiện thực về thời gian thành phố bị Đức Quốc xã chiếm đóng năm 1943, và Paris brûle t-il? ( 1966 ) về giải phóng paris vào tháng eight năm 1944. Đầu thập niên 2000, Le Fabuleux Destin d’Amélie Poulain ( 2001 ) là câu quận hoang tưởng trong một paris huyền thoại và vĩnh hằng. Bộ phim này giành được những thành công quốc tế và khiến nhiều người yêu điện ảnh tới montmartre để tìm kiếm những địa điểm tượng trưng của các cảnh quay. Điện ảnh thế giới cũng ghi dấu ấn với những bộ phim về paris. Năm 1951, bộ phim california nhạc An American in Paris, nói về một họa sĩ trẻ ở paris, đã thành công rực rỡ, đạt giải academy award cho phim hay nhất. Năm 1957, Tình yêu ban chiều ( Love in the Afternoon ) mở đầu với những cảnh paris tràn ngập các đôi yêu đương và Audrey hepburn gặp gỡ gary cooper tại khách sạn ritz. Trong Last Tango in Paris năm 1972, Marlon Brando trong vai một người đàn ông trung niên gặp cô gái trẻ maria Schneider tại một căn phòng american ginseng trọng ở quận sixteen. Cuối thế kỷ twenty là bộ phim california nhạc Everyone Says I Love You ( 1996 ) của đạo diễn woody allen. Đầu những năm 2000, trong Moulin Rouge! ( 2001 ), Nicole Kidman vào vai cô calcium sĩ Satine của quán Moulin rouge yêu chàng nhà văn christian bash Ewan McGregor diễn. Năm 2004, Bóng ma trong nhà hát ( The Phantom of the Opera ) chuyển thể từ tiểu thuyết của Gaston Leroux lại giới thiệu một paris của âm nhạc và sân khấu thời belle Époque. Da Vinci code ( 2006 ) tiếp tục chọn paris làm bối cảnh cho bộ phim. Mới nhất năm 2007, với vị trí kinh đô của ẩm thực, paris lại xuất hiện trong bộ phim hoạt hình Mỹ Chú chuột đầu bếp ( Ratatouille ). Không chỉ những tác phẩm lãng mạn, cảnh paris với tháp eiffel bị phá hủy thường xuyên được sử dụng trong các phim khoa học viễn tưởng. Bên cạnh điện ảnh, các công trình nổi tiếng và đời sống thường nhật của paris là đề tài sáng tác của nhiều nhiếp ảnh armed islamic group danh tiếng. Bắt đầu từ Eugène Atget ở cuối thế kỷ nineteen [ 159 ], tiếp đó tới robert Doisneau giữa thế kỷ twenty, người đã chụp vô số các bức ảnh về paris, trong đó nổi tiếng hơn cả là Le Baiser de l’Hôtel de Ville ( Nụ hôn trước tòa thị chính ) [ one hundred sixty ] .

Thành phố kết nghĩa [sửa |sửa mã nguồn ]

Từ năm 1956, paris trở thành thành phố sinh đôi cùng với duy nhất gypsy của Ý : [ 161 ] [ 162 ]

  • Tiếng Pháp: ” Seule Paris est digne de Rome; seule Rome est digne de Paris “
  • Tiếng Ý:      ” Solo Parigi è degna di Roma; solo Roma è degna di Parigi “

Có nghĩa : ” Duy nhất Paris xứng với Roma; duy nhất Roma xứng với Paris “ [ 163 ]

Thành phố sinh đôi
  • 1956: Roma

Ngoài ra paris còn có nhiều thành phố kết nghĩa khác : [ 161 ]

  • Soyer, Robert (1960). Géologie de la région parisienne. Que sais-je ?. André Cailleux. Paris: Presses universitaires de France.
  • Fierro, Alfred (1999). Robert Laffont (biên tập). Histoire et dictionnaire de Paris. Bouquins. ISBN 9782221078624.
  • Le Clère, Marcel (1985). Paris de la Préhistoire à nos jours. Bordessoules.
  • Favier, Jean (1997). Fayard (biên tập). Paris, 2000 ans d’histoire. ISBN 9782213598741.
  • Laurence, Jonathan (2007). Intégrer l’Islam. Justin Vaïsse. Odile Jacob. ISBN 9782738119001.

Liên kết ngoài [sửa |sửa mã nguồn ]